Đôi lời: Lâu nay, hiếm có một công trình nghiên cứu, đóng góp ý kiến vừa rất công phu, sắc sảo, vừa thẳng thắn không hề e ngại của nước ngoài trực tiếp với Nhà nước Việt Nam. Nay các giáo sư, chuyên gia của trường Đại học Harvard danh tiếng đã làm việc nầy. Đặc biệt hơn khi mà không khí hồ hởi sau một năm gia nhập WTO vẫn có vẻ như chưa “nguôi” trước những “gáo nước lạnh” từ hàng loạt khó khăn, thách thức, những vấn đề không lường hết … đã nảy sinh, bộc lộ những nguy cơ rất lớn tới mức cần những “gáo nước sôi” may ra mới tỉnh.
Từ “phản biện” được nói tới rất nhiều trong năm qua, nhưng thực tế thì quá ư ngược lại. Bao nhiêu ý kiến đóng góp sáng suốt bị bỏ ngoài tai để cứ tiếp tục cho ra đời những chánh sách vội vã gây tổn thất tiền của, làm dân cơ cực. Liệu có phải “bụt chùa nhà không thiêng” ? Vậy xin các sếp thử nghe “bụt chùa nhà … người ta” vậy.
Xin nói thêm, cho thấy “bụt” nầy xịn tới cỡ nào. Đó là nhóm giáo sư Harvard đã được Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng tiếp đầu tuần trước, sau đó đã làm việc với các Bộ liên quan của Việt Nam, và … (bấm dzô coi phỏng vấn giáo sư David Dapice – chuyên gia kinh tế trưởng chương trình VN – đồng tác giả của bản tài liệu). Tài liệu được trình cho Thủ tướng, khó tới được tay các sếp dưới, dzậy các sếp ráng mà đọc cho nâng tầm “trí tụê” lên nha. Còn nếu sếp nào được may mắn dzô “nâng cấp” trong cái Trường Fullbright trong Sè-Goàng hay qua Mẽo học theo cái Quỹ nầy thì rõ hơn – các thầy ở đó tham gia chắp bút cho tài liệu đó. (Ba Sàm: 21-1-2008).
Tổng quan
Đầu thập niên 1990, Chương trình Việt Nam của Đại học Harvard xuất bản một cuốn sách nhan đề Theo hướng rồng bay. Mục đích của cuốn sách này là nhằm cung cấp một số khuôn khổ chiến lược giúp cho việc xác định các ưu tiên và đưa ra các quyết sách quan trọng trong bối cảnh kinh tế của Việt Nam và thế giới lúc bấy giờ. Thế giới đã đổi thay nhiều kể từ khi cuốn sách Theo hướng rồng bay ra đời. Cuộc khủng hoảng tài chính khu vực năm 1997 đã phơi bày một số điểm yếu ẩn chứa bên trong mô hình phát triển của các nước Đông Á và Đông Nam Á. Quan trọng hơn, cấu trúc của nền kinh tế toàn cầu vẫn không ngừng biến chuyển và thay đổi với tốc độ ngày một nhanh hơn. Tự do hóa thương mại đã thực sự tạo ra thị trường toàn cầu cho các sản phẩm chế tạo và điều này cũng đang xảy ra với các sản phẩm dịch vụ. Hai thập kỷ của sáp nhập và mua bán công ty đã tạo ra những công ty toàn cầu khổng lồ đứng tại đỉnh của chuỗi cung ứng, thâm nhập sâu vào hệ thống sản xuất của cả nước đã và đang phát triển. Ngày nay, các nước đang phát triển không thể dựa vào những chiến lược công nghiệp hóa đã từng thành công trong quá khứ mà phải liên tục đánh giá lại thế vị của mình có tính đến những xu thế thay đổi rất nhanh trong đầu tư nước ngoài, thị trường tài chính, công nghệ, và nhân khẩu.
Về phía mình, Việt Nam đã thay đổi rất nhiều sau gần 20 năm với thành tích tăng trưởng cao và rất nhiều người dân Việt Nam đã thoát khỏi cảnh đói nghèo. Với tư cách một quốc gia, Việt Nam ngày càng nhận được sự nể trọng và có ảnh hưởng ngày càng lớn hơn trong cộng đồng quốc tế. Có được thành công này một phần là nhờ vào những quyết định sáng suốt của chính phủ trong việc giải phóng lực lượng sản xuất và hội nhập ngày càng sâu sắc hơn vào nền kinh tế toàn cầu. Hệ quả tất yếu của những thay đổi chính sách này là nền kinh tế Việt Nam ngày nay đã trở nên phức tạp hơn rất nhiều, đòi hỏi việc ra chính sách phải hết sức thận trọng và sáng suốt. Thế nhưng sự “quá tải” trong vai trò của nhà nước và sự xuất hiện của những nhóm đặc quyền được hưởng đặc lợi từ việc giữ nguyên trạng thái hiện tại làm cho quá trình hoạch định chính sách trở nên nặng nề và thiếu động cơ tiếp tục cải cách. Trái với tinh thần khẩn trương và cấp thiết của những năm đầu đổi mới, Việt Nam ngày nay đang được bao trùm bởi một bầu không khí thỏa mãn và lạc quan, được nuôi dưỡng bởi thành tích thu hút đầu tư nước ngoài và sự ngợi ca của cộng đồng quốc tế và các nhà tài trợ. Trong bối cảnh mới này, với tư cách là một nghiên cứu có tính định hướng về chiến lược kinh tế của Việt Nam thì nội dung của cuốn sách Theo hướng rồng bay không còn thích hợp nữa và cần được viết lại.2
Bài viết này trình bày một khuôn khổ chiến lược giúp Việt Nam xác định các ưu tiên và đưa ra các quyết sách kinh tế cho những năm đầu của thế kỷ 21. Một luận điểm quan trọng của bài viết này là Đông Á- được hiểu bao gồm Hàn Quốc, Nhật Bản, Đài Loan, Trung Quốc, Hồng-kông, và Sing-ga-po – nhìn chung đã thành công hơn so với các nước Đông Nam Á – bao gồm Thái-lan, In-đô-nê-xia, May-lay-xia, và Phi-lip-pin. Bài viết này xem Trung Quốc như một trường hợp đặc biệt: với vị trí địa lý, truyền thống văn hóa, tốc độ tăng trưởng rất nhanh, và chất lượng các trường đại học tinh hoa, Trung Quốc chắc chắn thuộc về mô hình Đông Á, thế nhưng đồng thời Trung Quốc cũng lại có những nhược điểm tương tự như của các nước Đông Nam Á. Đối với Việt Nam, một nước có nhiều điểm tương đồng trong chiến lược phát triển so với Trung Quốc thì ý nghĩa của phân tích này rất quan trọng. Việt Nam phải đi theo quỹ đạo phát triển của các nước Đông Á nhưng lại không được phép sử dụng những công cụ chính sách mà những nước này đã từng sử dụng trong quá trình công nghiệp hóa của chúng. Đáng tiếc là Việt Nam không những không rút được những bài học từ việc nghiên cứu các nền kinh tế đi trước, mà trái lại còn lặp lại nhiều sai lầm của các nước Đông Nam Á , Đông Á , và Trung Quốc. Một số người có thể cho rằng, việc bài viết này rút gọn 30 năm vào trong một vài nguyên lý cơ bản là một sự đơn giản hóa thái quá. Tuy nhiên, ở cấp độ chiến lược, kinh nghiệm của các nước Đông Á và Đông Nam Á cung cấp cho Việt Nam những bài học quan trọng mà Việt Nam không thể không nghiên cứu thật thấu đáo.
Một trong những chủ đề trọng tâm của bài viết này là quỹ đạo phát triển của Việt Nam trong tương lai phụ thuộc vào các quyết định hiện tại của nhà nước, và quỹ đạo này ngày càng trở nên khó vãn hồi. Những quyết định của ngày hôm nay sẽ định hình bối cảnh kinh tế chính trị của Việt Nam trong những năm, và thậm chí là những thập niên tiếp theo. Đặc biệt quan trọng, tiềm năng phát triển của Việt Nam trong tương lai phụ thuộc một phần lớn vào khả năng và ý chí của nhà nước trong việc xây dựng một “bức tường lửa” ngăn cách giữa quyền lực kinh tế và quyền lực chính trị. Đặc trưng cơ bản của mô hình phát triển Đông Á (được thể hiện ở Hàn Quốc, Đài Loan, Sing-ga-po) là khả năng của nhà nước trong việc áp đặt kỷ cương đối với các nhóm lợi ích, nhất là khi các nhóm này cản trở nền kinh tế trở nên có tính cạnh tranh hơn. Trong mô hình Đông Á, sự ưu ái của nhà nước đối với một doanh nghiệp phụ thuộc vào thành công trong kinh doanh chứ không phải vào các mối quan hệ chính trị hay thân quen của nó. Chính phủ thường xuyên từ chối ký hợp đồng, cấp tín dụng và các phương tiện khác ngay cả với những tập đoàn có thế lực nhất về mặt chính trị khi chính phủ thấy rằng kế hoạch kinh doanh của những tập đoàn này không khả thi, không đem lại lợi ích xã hội, hay những dự án trước đây của chúng không được thực hiện một cách thỏa đáng. “Chủ nghĩa tư bản thân hữu” phổ biến ở nhiều nước Đông Nam Á là thất bại của nhà nước trong việc xác định một ranh giới rạch ròi giữa những thế lực kinh tế và chính trị.
Chúng tôi không phải là những người duy nhất đưa ra nhận định này. Dự báo của Economist Intelligence Unit (EIU) cho rằng tốc độ tăng trưởng của Việt Nam sẽ suy giảm mạnh kể từ 2010 trở đi. Theo EIU, “những nhóm có đặc quyền đặc lợi về chính trị có thể gây trở ngại cho cải cách và ngăn chặn quá trình cấu trúc lại một số doanh nghiệp nhà nước (DNNN), ảnh hưởng tới việc tăng cường năng lực cạnh tranh và hạn chế kết quả tăng trưởng của Việt Nam”.3 Theo dự báo của EIU thì trong giai đoạn 2011 – 2020, tốc độ tăng trưởng của Việt Nam chỉ có thể duy trì ở mức 5,1% mỗi năm, thay vì mức trên 8% như hiện nay. Đánh giá này có thể làm cho các nhà lãnh đạo của Việt Nam ngạc nhiên, nhất là khi họ không ngớt nhận được những lời ngợi ca của các nhà tài trợ như Ngân hàng Thế giới, ngân hàng đầu tư, và báo chí quốc tế.4
Việt Nam cần hành động một cách quả quyết hơn nhằm ngăn chặn sự suy giảm tốc độ tăng trưởng do những tổ chức trung lập như EIU dự đoán. Chất lượng của đầu tư công là một chỉ báo then chốt cho sự thành công của chính phủ trong cải cách. Những người hay nhóm có thế lực chính trị thường lợi dụng các dự án đầu tư công để trục lợi cá nhân và trở lên giàu có một cách bất chính. Với tư cách là chủ đầu tư, nhà nước không thể cho phép các chương trình đầu tư của mình đi chệch khỏi mục tiêu tối đa hóa lợi ích của quốc gia. Khi đầu tư công trở thành đối tượng của các hành vi trục lợi thì một mặt mục tiêu của dự án đầu tư không được thực hiện, đồng thời gánh nặng chi phí sẽ được đặt lên vai của người dân và của nền kinh tế. Trên thực tế Việt Nam đang đánh mất một phần đáng kể nguồn lực của mình do lãng phí và tham nhũng. Công luận không ngớt đưa tin về những dự án cơ sở hạ tầng (CSHT) bị chậm tiến độ, đội giá, và chất lượng kém. Trong nhiều trường hợp, dự án được lựa chọn mà không hề căn cứ vào những tiêu chí kinh tế thích hợp. Ví dụ như Việt Nam đang đầu tư xây dựng mới rất nhiều cảng nước sâu dọc bờ biển miền Trung trong khi đó CSHT ở TP. Hồ Chí Minh, Bình Dương, Đồng Nai, và Bà Rịa – Vũng Tàu, nơi hấp thụ tới gần 60% lượng gia tăng dân số và lao động của cả nước, lại đang quá tải một cách trầm trọng nhưng không được đầu tư thỏa đáng. Dự án đầu tư 33 tỷ đô-la cho đường sắt cao tốc Bắc – Nam ở thời điểm hiện nay là quá sớm và vì vậy sẽ đóng góp không đáng kể cho tăng trưởng kinh tế, trong khi gia tăng gánh nặng nợ nần cho quốc gia và giảm cơ hội đầu tư cho các dự án khác cấp thiết hơn nhiều.
Nhiều cá nhân và nhóm có thế lực chính trị ở Việt Nam đang “hô biến” tài sản quốc gia thành sở hữu cá nhân thông qua những phi vụ đất đai mờ ám và cổ phần nội bộ. Ở Việt Nam, một đất nước có thu nhập bình quân đầu người khoảng 800 đô-la một năm nhưng giá đất lại đắt ngang với những nước giàu nhất thế giới. Không hiếm trường hợp các cá nhân giàu có kiếm được những khoản lợi nhuận kếch sù từ hoạt động đầu cơ bất động sản, và họ làm được điều này chủ yếu là nhờ hệ thống quy định và quản lý nhà nước quá yếu kém. Có doanh nghiệp kinh doanh bất động sản công khai tuyên bố: “nhờ quản lý quá kém, tôi làm giàu quá nhanh” . Cổ phần hóa các DNNN sẽ là một chủ trương đúng nhằm tăng cường hiệu quả và sức cạnh tranh cho khu vực kinh tế nhà nước nếu như quá trình này được thực hiện một cách minh bạch và có trách nhiệm. Tuy nhiên, trên thực tế, cũng vì quản lý yếu kém nên cổ phần hóa trong nhiều trường hợp đã bị biến thành tư nhân hóa, giúp cho những người nắm quyền kiểm soát công ty trở nên giàu có trong khi tài sản của dân, của nước bị thất thoát nặng nề.
Hoạt động của hệ thống tài chính cũng phản ánh sự thất bại của Việt Nam trong việc tách bạch quyền lực kinh tế và quyền lực chính trị. Trong khi khu vực kinh tế ngoài quốc doanh tạo ra hơn 90% việc làm trong khu vực công nghiệp và gần 70% sản lượng công nghiệp thì phần lớn tín dụng và đầu tư của nhà nước lại được giành cho khu vực kinh tế quốc doanh. Trong thời gian qua, giao dịch nội gián đã trở thành hiện tượng tương đối phổ biến trên thị trường chứng khoán, trong đó nạn nhân là các nhà đầu tư nhỏ lẻ. Đồng thời, các giám đốc và những người “chủ” doanh nghiệp vẫn tiếp tục lợi dụng kẽ hở của thị trường để trục lợi cho mình.
Bài viết này cũng phân tích vai trò trọng tâm của giáo dục trong mô hình phát triển của Đông Á để từ đó nêu bật lên sự cấp thiết phải cải cách toàn diện và triệt để nền giáo dục của Việt Nam. Mặc dù nội dung phân tích tập trung vào giáo dục đại học nhưng cần phải thấy rằng hệ thống giáo dục của Việt Nam đang bị khủng hoảng ở mọi cấp độ. Bài viết chỉ ra rằng chất lượng giáo dục đại học là một chỉ báo đáng tin cậy cho mức độ thịnh vượng về kinh tế. Từ thực tế này, tình trạng kém cỏi của các trường đại học Việt Nam so với hầu hết các trường đại học trong khu vực là một điều vô cùng đáng lo ngại. Tình trạng giáo dục hiện nay ở Việt Nam không chỉ là một trở ngại lớn cho sự phát triển kinh tế mà còn là mầm mống cho sự bất mãn về xã hội và bất ổn về chính trị trong tương lai.
Mặc dù những xu thế trên chưa đến mức nguy hiểm chết người nhưng để biến những tiềm năng to lớn của Việt Nam thành hiện thực thì nhà nước phải hành động tức thời và quả quyết trong một số lĩnh vực chính sách. Phần cuối của bài viết này được dành để thảo luận một số kiến nghị chính sách. Trong khuôn khổ có hạn, chúng tôi chỉ có thể thảo luận một số vấn đề quan trọng và có tính ưu tiên cao nhất mà không thể thảo luận một cách toàn diện mọi vấn đề của Việt Nam. Chúng tôi không hề né tránh những vấn đề có thể gây tranh cãi. Sự thực là, chính vì nhận thức được một cách hết sức rõ ràng về sự thiếu vắng của những tiếng nói phản biện chính sách với tinh thần xây dựng mà chúng tôi thực hiện bài viết này. Những chính sách có hiệu lực chỉ được ra đời từ những phân tích sâu sắc và thảo luận sôi nổi, có căn cứ.5 Nhiều quốc gia khác cũng đã từng trải qua một số thách thức mà Việt Nam đang gặp phải. Điều này có nghĩa là nhiều giải pháp và bài học đã có sẵn, thiếu chăng chỉ là một quyết tâm chính trị. Đây cũng chính là chủ đề quan trọng thứ hai của bài viết: bằng những lựa chọn (hay không lựa chọn) của mình, nhà nước Việt Nam sẽ quyết định tốc độ và triển vọng phát triển kinh tế của đất nước. Nói một cách khác, đối với Việt Nam, thành công là một sự lựa chọn trong tầm tay.
Nguồn: anhbasam
Về phía mình, Việt Nam đã thay đổi rất nhiều sau gần 20 năm với thành tích tăng trưởng cao và rất nhiều người dân Việt Nam đã thoát khỏi cảnh đói nghèo. Với tư cách một quốc gia, Việt Nam ngày càng nhận được sự nể trọng và có ảnh hưởng ngày càng lớn hơn trong cộng đồng quốc tế.
Trả lờiXóa