Thứ Sáu, 10 tháng 8, 2012
Chuyên đề 2
TÌNH CẢM GẮN BÓ KEO SƠN
GIỮA HAI DÂN TỘC VIỆT NAM - LÀO
TRONG NHỮNG NĂM THÁNG CHIẾN TRANH TRƯỚC ĐÂY
CŨNG NHƯ TRONG SỰ NGHIỆP XÂY DỰNG
ĐẤT NƯỚC HIỆN NAY
-----

          Trong lịch sử quan hệ quốc tế từ xưa tới nay, quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào – Việt Nam là một điển hình, một tấm gương mẫu mực, hiếm có về sự gắn kết bền chặt, thuỷ chung, trong sáng và đầy hiệu quả giữa hai dân tộc đấu tranh vì độc lập, tự do và tiến bộ xã hội. Quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam phát triển từ quan hệ truyền thống, do Chủ tịch Hồ Chí Minh xây dựng nền móng và chính Người cùng đồng chí Kayxỏn Phômvihản, đồng chí Xuphanuvông và các thế hệ lãnh đạo hai Đảng, hai Nhà nước, nhân dân hai nước dày công vun đắp. Một trong những nhân tố làm nên mối quan hệ đặc biệt Việt Nam -Lào, Lào-Việt Nam, đó chính là tình cảm gắn bó keo sơn giữa hai dân tộc Việt Nam - Lào trong những năm tháng chiến tranh trước đây cũng như trong sự nghiệp xây dựng đất nước hiện nay.
          Thứ nhất: Hai dân tộc sát cánh bên nhau, vượt qua mọi gian khổ, hy sinh, đòan kết gắn bó đánh giặc ngoại xâm.
          Dân tộc Việt Nam kể từ khi Nhà nước Văn Lang thành lập đã trải qua mấy ngàn năm lịch sử và liên tục bị chế độ phong kiến phương Bắc xâm lược, thống trị và do đó đã phải không ngừng chiến đấu giành và bảo vệ độc lập dân tộc. Nước Lào cũng trải qua lịch sử hàng nghìn năm và cũng phải ngoan cường chống xâm lược để khẳng định sự tồn tại của mình với tư cách một dân tộc, một quốc gia độc lập.
          Từ đầu thế kỷ 20, không cam chịu ách nô lệ, nhân dân hai nước Lào-Việt Nam đã đoàn kết, cùng nhau đấu tranh chống Pháp. Trong đó, có phong trào chống Pháp ở Áttapư do Khi Volảlạt lãnh đạo (1900-1901), phong trào Phùmibun ở Trung Lào của Phò Càduột (1901-1902) và cuộc khởi nghĩa Hạ Lào do ông Kẹo, ông Côm mađăm lãnh đạo (1901-1937) đã có sự liên kết với các cuộc nổi dậy chống Pháp của bộ tộc Xơ đăng ở KonTum (Việt Nam). Đặc biệt, năm 1918, phong trào chống Pháp của người Mông ở Tây Bắc Việt Nam do Chạu Phạpắt chây lãnh đạo lan rộng trên địa bàn nhiều tỉnh Bắc Lào và Tây Bắc Việt Nam, kéo dài đến tận năm 1922 gây cho Pháp nhiêù thiệt hại.
          Như vậy, trước 1930, đã xuất hiện đoàn kết Lào-Việt cùng chiến đấu chống kẻ thù chung nhưng lúc đó chỉ dừng lại ở tính chất tự phát do hạn chế về trình độ nhận thức và điều kiện lịch sử. Từ khi được chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh soi đường, đặc biệt là từ khi Đảng Cộng sản Đông Dương ra đời do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập, trực tiếp lãnh đạo cuộc đấu tranh giải phóng của hai dân tộc Lào-Việt Nam, tình đoàn kết đó đã được phát triển mạnh mẽ và liên tục.
           Nhân dân Lào cùng Việt kiều đấu tranh chống chế độ thuộc địa, phối hợp và ủng hộ cách mạng Việt Nam giai đoạn (1930-1939).
 Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam (3-2-1930) đã mở đầu trang sử vẻ vang của quan hệ đặc biệt Việt Nam – Lào.
Tại Hội nghị lần thứ nhất (tháng 10 -1930) Đảng Cộng sản Việt Nam đổi tên thành Đảng Cộng sản Đông Dương, đồng thời xác lập cácnguyên tắc, phương hướng, đường lối chính trị và những nhiệm vụ cơ bản cho phong trào cách mạng của ba dân tộc ở Đông Dương; đặt phong trào cách mạng Việt Nam và phong trào cách mạng Lào dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương. Chính vì vậy, trong những năm 1930 - 1939,  các cuộc đấu tranh của nhân dân Việt Nam và Lào đã hỗ trợ lẫn nhau, góp phần thúc đẩy sự phát triển phong trào cách mạng mỗi nước.
Trong thời gian trên, Tỉnh uỷ Quảng Trị đã bắt mối xây dựng một số chi bộ Đảng trong Việt kiều ở địa bàn Trung Lào. Sự ra đời của các chi bộ này, thể hiện sự phát triển của phong trào đấu tranh của công nhân và nhân dân lao động Lào cũng như vai trò rất lớn của Việt kiều. Dưới sự lãnh đạo của các chi bộ Đảng, sự vận động của các đoàn thể quần chúng, những hoạt động chống Pháp có tính chất lẻ tẻ trong phạm vi bộ tộc, bộ lạc, mang tính chất địa phương và tự phát ở Lào dần chuyển lên mang tính tổ chức, hoà nhịp với phong trào đấu tranh của ba nước Đông Dương. Những hoạt động yêu nước và cách mạng ở Việt Nam và Lào có sự phối hợp và ngày càng gắn kết chặt chẽ bổ sung, hỗ trợ nhau.
Nhân dân hai nước Việt Nam-Lào giúp nhau tiến hành cuộc vận động khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền thắng lợi(1939 - 1945).
 Trước sự tồn vong của các dân tộc Đông Dương, Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương liên tiếp tổ chức các cuộc hội nghị quan trọng, đặc biệt, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng tháng 5- 1941 do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc chủ trì đã quyết định nhiệm vụ giải phóng dân tộc giải quyết vấn đề dân tộc trong khuôn khổ từng nước và thành lập ở mỗi nước một mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi trong đó nhiệm vụ giải phóng dân tộc được đặt lên hàng trước tiên của cách mạng Đông Dương. Hội nghị cho rằng các dân tộc Đông Dương đều chịu chung một ách thống trị của phát xít Pháp-Nhật cho nên phải đoàn kết lại đánh đuổi kẻ thù chung.
 Cuối năm 1944 đầu năm 1945, tình hình thế giới và Đông Dương có nhiều biến đổi, đe doạ trực tiếp quyền lực và lợi ích của phát xít Nhật ở Đông Dương. Trước tình hình đó, hai dân tộc Việt Nam - Lào đã phối hợp đấu tranh chống phát-xít Nhật tiến hành khởi nghĩa giành chính quyền thắng lợi, thành lập chính phủ độc lập ở mỗi nước. Sự ra đời của Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà (ngày 2-9-1945), Chính phủ Lào Ítxalạ (Lào tự do) (ngày 12-10-1945) là một trong những cơ sở đưa tình đoàn kết, giúp đỡ nhau lên tầm liên minh chiến đấu để hai bên xây dựng mối quan hệ hữu hảo và vững chãi hơn trước là một bước ngoặt đưa tình đoàn kết, giúp đỡ nhau lên tầm liên minh chiến đấu.
Liên minh Việt Nam-Lào , Lào-Việt Nam chiến đấu chống thực dân Pháp và đế  quốc Mỹ xâm lược
 Sau khi giành lại được chính quyền, Chính phủ hai nước đã ký Hiệp ước tương trợ Lào – Việt ([1][1])Hiệp định về tổ chức Liên quân Lào  - Việt ([2][2]), đặt cơ sở pháp lý đầu tiên cho sự hợp tác giúp đỡ và liên minh chiến đấu chống kẻ thù chung của hai dân tộc Việt Nam - Lào.
Ngày 25-11-1945, trước nguy cơ tồn vong nền độc lập dân tộc của ba nước Việt Nam - Lào - Campuchia, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương ra Chỉ thịKháng chiến kiến quốc để chỉ đạo sự nghiệp giải phóng dân tộc của ba nước Đông Dương. Chỉ thị chủ trương: “Thống nhất mặt trận Việt – Miên - Lào chống Pháp xâm lược”. Thực hiện chủ trương này, trong 3 năm (1945-1948), liên minh chiến đấu Việt Nam - Lào từng bước được hình thành, phát triển và thu được nhiều kết quả, góp phần thúc đẩy quan hệ đoàn kết chiến đấu Việt Nam - Lào gắn bó mật thiết hơn. Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ sáu, (tháng 1- 1949) đã quyết định “mở rộng mặt trận Lào - Miên”, trong đó nhấn mạnh yêu cầu mở rộng Mặt trận kháng chiến Lào và Campuchia, củng cố các lực lượng Việt Nam làm nhiệm vụ quốc tế ở hai nước, tăng cường thêm cán bộ, xây dựng và mở rộng các căn cứ ở Lào... Thực hiện chủ trương đó, Việt Nam đã cử nhiều cán bộ phối hợp với lực lượng kháng chiến Lào mở lớp huấn luyện quân sự và học tập chính trị. Lực lượng này, sau được tổ chức thành hệ thống riêng và lấy tên là Quân tình nguyện.
 Đại hội Quốc dân Lào (Mặt trận Lào kháng chiến) họp từ ngày 13 đến ngày 15 - 8 - 1950, tại Tuyên Quang (Việt Nam) đã đề ra Cương lĩnh chính trị 12 điểm, trong đó nhấn mạnh yêu cầu tăng cường đoàn kết quốc tế, trước hết là với Việt Nam và Campuchia, cùng nhau đánh đuổi kẻ thù chung là thực dân Pháp xâm lược và can thiệp Mỹ, góp phần bảo vệ hòa bình thế giới.  
Ngày 11-3-1951, theo sáng kiến của Đảng Lao động Việt Nam, Hội nghị khối liên minh nhân dân Việt Nam – Lào – Campuchia đã thành lập theo nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng, tương trợ và tôn trọng chủ quyền của nhau, cùng nhau đánh đuổi bọn thực dân, đế quốc xâm lược, giành độc lập thực sự cho nhân dân Đông Dương. Hội nghị đề ra chương trình hành động chung và cử Ủy ban liên minh gồm đại diện của ba nước Việt Nam, Lào, Campuchia. Việc thành lập khối liên minh nhân dân Việt Nam – Lào – Campuchia đã tạo cơ sở để nâng cao quan hệ đoàn kết và phối hợp chiến đấu giữa nhân dân ba nước Đông Dương và đã giáng đòn mạnh mẽ vào chính sách “chia để trị” của bọn thực dân, đế quốc. Tháng 12-1953, một bộ phận quân chủ lực Việt Nam phối hợp với bộ đội Lào Ítxalạ và quân tình nguyện Việt Nam tại Lào mở chiến dịch Trung, Hạ Lào. Chiến thắng của Liên quân Việt – Lào góp phần làm phá sản kế hoạch tập trung quân của Nava, buộc địch phải phân tán lực lượng đối phó trên nhiều chiến trường, tạo điều kiện củng cố, phát triển thế phối hợp chiến lược giữa hai nước Việt Nam và Lào.
 Với việc ký kết Hiệp định Giơnevơ 1954, cách mạng hai nước Việt Nam, Lào bước vào thời kỳ mới: thời kỳ tập trung xây dựng lực lượng, đẩy mạnh đấu tranh để giữ vững hòa bình và giành độc lập, thống nhất ở mỗi nước. Tuy nhiên, đế quốc Mỹ vẫn nuôi tham vọng xâm lược, ra sức can thiệp vào miền Nam Việt Nam và Lào, âm mưu biến nơi đây thành thuộc địa kiểu mới và căn cứ quân sự, để làm bàn đạp tiến công các nước xã hội chủ nghĩa. Trước sự chuyển biến mới của cách mạng Lào, Đại hội thành lập Đảng Nhân dân Lào được tiến hành từ ngày 22 tháng 3 đến ngày 6 tháng 4 năm 1955 tại tỉnh Sầm Nưa. Đảng Nhân dân Lào ra đời đã tạo cơ sở vững chắc để tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với cách mạng Lào, đồng thời là nhân tố trọng yếu, có ý nghĩa quyết định thúc đẩy quan hệ đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau giữa cách mạng hai nước Lào - Việt Nam. Đặc biệt, sau Đại hội đại biểu lần thứ II của Neo Lào Hắc Xạt (Mặt trận Lào yêu nước) đã mở ra triển vọng mới cho sự tăng cường hợp tác, giúp đỡ lẫn nhau giữa cách mạng hai nước Việt Nam – Lào. 
Sau khi Đảng Nhân dân Lào được thành lập, các lực lượng yêu nước Lào với sự phối hợp, hỗ trợ tích cực của các tổ cố vấn quân sự và dân chính Việt Nam đã liên tiếp đánh bại các cuộc tiến công của các thế lực phái hữu trong chính quyền và quân đội Viêng Chăn vào vùng căn cứ cách mạng, gây cho địch nhiều thiệt hại. Đúng như khẳng định của Ban Chỉ đạo Đảng Nhân dân Lào: Sở dĩ cách mạng Lào đạt được những thắng lợi to lớn đó là do tinh thần đoàn kết đấu tranh anh dũng kiên cường của nhân dân, cán bộ, chiến sĩ Lào dưới sự lãnh đạo của Đảng Nhân dân Lào, đồng thời cũng do sự đóng góp quan trọng của đồng chí và Trung ương Đảng Lao động Việt Nam đã hết lòng theo dõi, giúp đỡ chúng tôi trong mỗi giai đoạn của cách mạng [3][3]
Từ cuối năm 1958, đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai đẩy mạnh các hoạt động lật lọng, từng bước xoá bỏ các hiệp ước hoà hợp dân tộc đã được ký kết để cuối cùng trắng trợn xoá bỏ Chính phủ liên hiệp và hoà hợp dân tộc. Trước sự can thiệp trắng trợn của đế quốc Mỹ vào Lào, Hội nghị Trung ương Đảng Nhân dân Lào (3-6-1959) xác định cuộc đấu tranh cách mạng của nhân dân Lào đang chuyển sang một giai đoạn mới, giai đoạn từ đấu tranh công khai hợp pháp là chủ yếu, chuyển sang đấu tranh vũ trang là chủ yếu, kết hợp với các hình thức đấu tranh khác. Thống nhất với quan điểm trên của Đảng Nhân dân Lào, Hội nghị Bộ Chính trị Đảng Lao động Việt Nam (2-7-1959) đề ra chủ trương chi viện cách mạng Lào đáp ứng yêu cầu xây dựng, phát triển lực lượng trong tình hình mới và coi đây là một nhiệm vụ quốc tế hết sức quan trọng, có ý nghĩa to lớn đối với cách mạng Việt Nam. Về phía Việt Nam, được sự giúp đỡ tận tình của nhân dân các bộ tộc Lào, các đoàn công tác quân sự của ta đã xây dựng được nhiều cơ sở cách mạng, phục vụ cho việc mở tuyến đường mới dọc Tây Trường Sơn trên đất Lào.
Ngày 5-9-1962, Chính phủ nước Việt Nam dân chủ cộng hoà và Chính phủ Vương quốc Lào chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao. Đầu năm 1963 vua Lào Xỉxávàng Vắthana dẫn đầu đoàn đại biểu Hoàng gia Lào thăm Việt Nam. Trong buổi chiêu đãi vua Lào, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Hai dân tộc Việt và Lào sống bên nhau trên cùng một dải đất, cùng có chung một dãy núi Trường Sơn. Hai dân tộc chúng ta đã nương tựa vào nhau, giúp đỡ lẫn nhau như anh em… Ngày nay chúng ta lại đang giúp đỡ nhau để xây dựng một cuộc sống mới. Tình nghĩa láng giềng anh em Việt - Lào thật là thắm thiết không bao giờ phai nhạt được”([4][4]).
Mặc dù Hiệp định Giơnevơ năm 1962 về Lào được ký kết, đế quốc Mỹ vẫn chưa từ bỏ âm mưu xâm lược Lào, tăng cường viện trợ, giúp chính quyền tay sai thân Mỹ tiến công lấn chiếm vùng giải phóng, đồng thời ra sức phá hoại Chính phủ liên hiệp, cô lập và vu cáo Neo Lào Hắc Xạt. Từ cuối năm 1963, Việt Nam cử chuyên gia quân sự sang làm nhiệm vụ quốc tế ở Lào và đến giữa năm 1964, thành lập hệ thống chuyên gia quân sự Việt Nam từ trên cơ quan Tổng tư lệnh Lào xuống đến Bộ tư lệnh các quân khu, tỉnh đội và cấp tiểu đoàn, có nhiệm vụ phối hợp với bạn để nghiên cứu kế hoạch tác chiến, xây dựng lực lượng vũ trang, xây dựng và củng cố các vùng căn cứ ở Lào. Đồng thời, các đơn vị quân tình nguyện Việt Nam phối hợp với bộ đội Pathết Lào mở nhiều chiến dịch, chủ yếu ở khu vực đường 9 – Trung Lào, Cánh đồng Chum – Xiêng Khoảng, đập tan các cuộc tấn công lấn chiếm của địch, bảo vệ vững chắc vùng giải phóng Lào, tạo điều kiện thuận lợi cho quân và dân Việt Nam vận chuyển trên đường Tây Trường Sơn để chi viện cho chiến trường miền Nam Việt Nam và cách mạng hai nước Lào, Campuchia.
Ngày 22-6-1965, Đảng Lao động Việt Nam đã thống nhất với Đảng Nhân dân Lào về việc phối hợp và giúp đỡ lẫn nhau, trong đó tập trung giúp Lào xây dựng vùng giải phóng về mọi mặt. Tiếp đó, ngày 3/ 7/ 1965, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam ra Nghị quyết khẳng định: “Việt Nam cần phải nỗ lực đáp ứng đến mức cao nhất mọi yêu cầu đối với công cuộc phát triển cách mạng của Lào”[5][5]. Đầu năm 1968, bộ đội tình nguyện Việt Nam phối hợp với Quân giải phóng Lào mở chiến dịch tiến công Nặm Bạc thắng lợi, giải phóng hoàn toàn khu vực Nặm Bạc – Khăm Đeng với trên một vạn dân, nối liền vùng giải phóng Thượng Lào thành khu vực liên hoàn, tạo thế vững chắc cho hậu phương cách mạng Lào và hỗ trợ thiết thực cho cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam và Campuchia.
Những thắng lợi trên thể hiện nấc thang phát triển mới của lực lượng cách mạng Lào, đồng thời khẳng định sức mạnh to lớn của quan hệ đoàn kết chiến đấu giữa quân và dân hai nước Việt Nam – Lào, trong đó thể hiện tình cảm chân thành nhất mực, sắt son của Việt Nam đối với sự nghiệp cách mạng Lào, như đồng chí Cay xỏn Phômvihản phát biểu trong cuộc hội đàm giữa Đảng Nhân dân Lào và Đảng Lao động Việt Nam (12-1968) đã nhấn mạnh: “Sự giúp đỡ của Việt Nam cho cách mạng Lào hết sức tận tình và vô tư. Việt Nam đã giúp Lào cả vật chất và xương máu. Xương máu của nhân dân Việt Nam đã nhuộm đỏ khắp nơi trên đất nước Lào vì nền độc lập của Lào…Sự giúp đỡ của Việt Nam đối với Lào đã xây dựng nên mối quan hệ đặc biệt, thực tế đó cũng là sự vận dụng đúng đắn chủ nghĩa Mác – Lênin và chủ nghĩa quốc tế vô sản”[6][6].
Trước âm mưu và thủ đoạn chiến tranh mới của đế quốc Mỹ, Trung ương Đảng Lao động Việt Nam và Trung ương Đảng Nhân dân Lào đã ra chỉ thị khẳng định tăng cường đoàn kết giữa nhân dân hai nước, quyết tâm đánh bại đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai trong bất cứ tình huống nào. Với tinh thần đó, đến cuối năm 1972, cách mạng Lào đã giành được nhiều thắng lợi quan trọng và cùng với những chiến thắng to lớn về nhiều mặt của quân tình nguyện Việt Nam và quân giải phóng nhân dân Lào cuối năm 1972, đầu năm 1973 đã trực tiếp góp phần quan trọng buộc chính phủ Viêng Chăn phải ký kết Hiệp định Viêng Chăn “lập lại hoà bình và thực hiện hòa hợp dân tộc ở Lào” (21-2-1973).
Bước vào thời kỳ mới, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ hai Đảng Nhân dân Lào đã quyết định đổi tên Đảng thành Đảng Nhân dân cách mạng Lào; Đại hội đã suy tôn đồng chí Hồ Chí Minh là lãnh tụ của Đảng; thông qua Nghị quyết: “Tăng cường đoàn kết Lào – Việt”. Đặc biệt, đại hội khẳng định tình đoàn kết Lào – Việt trên cơ sở chủ nghĩa Mác -  Lênin và tinh thần quốc tế vô sản là mối quan hệ đặc biệt. Đảng Lao động Việt Nam và Đảng Nhân dân cách mạng Lào cũng đã thống nhất phương hướng hợp tác cần tập trung vào những vấn đề cơ bản nhất, những khâu then chốt nhất, tạo điều kiện cho Lào nhanh chóng đảm đương được công việc một cách độc lập, tự chủ.
Thực hiện chủ trương trên, Việt Nam từng bước rút chuyên gia ở tỉnh và huyện về nước (trước tháng 5-1974), đồng thời điều chỉnh các lực lượng chuyên gia và quân tình nguyện còn lại để phối hợp và giúp Lào thực hiện nhiệm vụ trong giai đoạn cách mạng mới. Sự phối hợp chặt chẽ và giúp đỡ hiệu quả giữa Việt Nam và Lào nói trên, đã làm cho thế và lực của cách mạng Lào lớn mạnh vượt bậc, tạo điều kiện thúc đẩy phong trào đấu tranh của quần chúng ngày càng lan rộng và sôi nổi, nhất là ở Thủ đô Viêng Chăn, buộc Chính phủ liên hiệp phải chấp nhận Cương lĩnh chính trị 18 điểm và Chương trình hành động 10 điểm do Mặt trận Lào yêu nước đưa ra (12-1974), đồng thời góp phần hỗ trợ tích cực cho nhân dân Việt Nam và nhân dân Campuchia anh em giành thắng lợi hoàn toàn trong cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược.
Trước thắng lợi dồn dập, to lớn của nhân dân Việt Nam, Campuchia trong tháng 4-1975, nhất là chiến thắng giải phóng hoàn toàn miền Nam (30-4-1975) của nhân dân Việt Nam, ngày 5-5-1975, Bộ Chính trị Trung ương Đảng nhân dân cách mạng Lào tổ chức Hội nghị mở rộng, quyết định phát động toàn Đảng, toàn dân, toàn quân trong cả nước nổi dậy đoạt lấy chính quyền và giành thắng lợi hoàn toàn.
Tháng 12 năm 1975, nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào ra đời. Đây là thắng lợi to lớn, triệt để của nhân dân các bộ tộc Lào, đồng thời cũng là thắng lợi quan trọng của mối quan hệ đặc biệt, liên minh đoàn kết chiến đấu, thủy chung, son sắt giữa hai dân tộc Việt Nam – Lào.
Thứ hai: Hợp tác và giúp đỡ nhau, vượt qua khó khăn cùng xây dựng chủ nghĩa xã hội, hội nhập và phát triển.
Sau năm 1975, quan hệ Việt Nam và Lào bước sang một trang mới. Đây là thời kỳ Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng Nhân dân cách mạng Lào trở thành Đảng cầm quyền ở mỗi nước; cả hai nước càng có điều kiện phát huy truyền thống tốt đẹp đã từng gắn bó keo sơn trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù xâm lược, xây dựng và tăng cường quan hệ liên minh, liên kết và hợp tác toàn diện về chính trị, quốc phòng an ninh, kinh tế, văn hoá, giáo dục… Tuy nhiên, vào thời điểm này hai nước đều phải ra sức khắc phục hậu quả nặng nề của chiến tranh, đặc biệt là hậu quả thống trị của chủ nghĩa thực dân mới. Trong khi đó, các thế lực thù địch trong nước và bên ngoài câu kết, tìm cách chia rẽ Lào với Việt Nam, Việt Nam với Lào gây khó khăn, trở ngại không nhỏ cho mối quan hệ giữa Việt Nam và Lào.
 Ngày 30-4-1976, Bộ Chính trị Trung ương Đảng Lao động Việt Nam ra Nghị quyết Về tăng cường giúp đỡ và hợp tác với cách mạng Lào trong giai đoạn mới, xác định: việc tăng cường đoàn kết, giúp đỡ, hợp tác đối với Lào là một trong những nhiệm vụ quốc tế hàng đầu của Đảng và nhân dân Việt Nam. Từ ngày 15 đến ngày 18-7-1977, Đoàn đại biểu cao cấp Đảng và Chính phủ Việt Nam do Tổng Bí thư Lê Duẩn và Thủ tướng Phạm Văn Đồng dẫn đầu sang thăm hữu nghị chính thức Lào. Hai bên đã trao đổi ý kiến về các vấn đề quốc tế quan trọng mà hai bên cùng quan tâm, cũng như các vấn đề nhằm phát triển mối quan hệ hữu nghị, hợp tác giữa Đảng, Chính phủ và nhân dân hai nước, trên cơ sở đáp ứng nguyện vọng thiết tha và lợi ích sống còn của hai dân tộc trong sự nghiệp bảo vệ độc lập dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Ngày 18 tháng 7 năm 1977, hai nước chính thức ký kết các Hiệp ước: Hiệp ước hữu nghị và hợp tác giữa Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào; Hiệp ước hoạch định biên giới quốc gia giữa nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào; và ra Tuyên bố chung tăng cường sự tin cậy và hợp tác lâu dài giữa hai nước. Hiệp ước hữu nghị và hợp tác giữa Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào là Hiệp ước toàn diện, mang tính chiến lược lâu dài, tạo cơ sở chính trị và pháp lý quan trọng để củng cố và tăng cường lâu dài tình đoàn kết, mối quan hệ đặc biệt Việt Nam – Lào, mốc lịch sử quan trọng đánh dấu bước ngoặt mới trong quan hệ giữa hai nước.
Ngày 3-7-1987, Ban Bí thư Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam chỉ thị: “Trên cơ sở quán triệt đường lối đối ngoại của Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, các Nghị quyết 10 và 11 của Bộ Chính trị về tăng cường đoàn kết, hợp tác toàn diện với Lào và Campuchia và nội dung thỏa thuận trong các cuộc hội đàm lần này[7][7], các bộ ban ngành và các tỉnh trực tiếp làm nhiệm vụ hợp tác với bạn cần kiểm điểm, rút kinh nghiệm, kiên quyết xử lý và có biện pháp chấm dứt các hiện tượng tiêu cực, các quan điểm, nhận thức và hành động sai trái gây phương hại cho quan hệ đặc biệt giữa ta với Lào”[8][8]. Về phía Lào, Ban Bí thư Trung ương Đảng Nhân dân cách mạng Lào cũng khẳng định: “Xuất phát từ truyền thống lịch sử và tình hình, nhiệm vụ chiến lược của cách mạng ba nước, sự tăng cường liên minh hợp tác toàn diện giữa ba Đảng, ba nước Lào Việt Nam Campuchia mới trở thành nhiệm vụ chiến lược số một, là nguyên tắc cách mạng bất di bất dịch của mỗi nước, là vấn đề sống còn của mỗi nước[9][9]. Đặc biệt, Chỉ thị của Ban Bí thư Đảng Nhân dân cách mạng Lào ghi rõ: “hai bên nhất trí phải tăng cường giáo dục cho cán bộ, đảng viên và nhân dân hiểu rõ quan hệ đoàn kết sống còn và lâu dài, quán triệt quan điểm, phương châm nguyên tắc của mối quan hệ trong giai đoạn cách mạng mới, uốn nắn tư tưởng và tác phong làm việc mới, tránh những bảo thủ, chủ quan, chống mọi hiện tượng lơ là mất cảnh giác, thiếu trách nhiệm, chống tư tưởng dân tộc hẹp hòi”[10][10].
Theo tinh thần đó, từ năm 1988, cuộc gặp hàng năm giữa hai Bộ Chính trị đã trở thành một cơ chế hoạt động chính thức giữa hai Đảng và hai Nhà nước. Trong đó có sự kiện có ý nghĩa quan trọng đánh dấu bước phát triển mới trong quan hệ hợp tác toàn diện Việt Nam là chuyến thăm hữu nghị chính thức nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào của Đoàn đại biểu Đảng Cộng sản Việt Nam do Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh dẫn đầu từ ngày 2 đến ngày 4 -7-1989. Đây là chuyến thăm Lào chính thức đầu tiên của lãnh đạo cấp cao Đảng Cộng sản Việt Nam từ sau Đại hội IV Đảng Nhân dân Cách mạng Lào. Hai bên thống nhất với nhau nhiều vấn đề quan trọng trong việc đổi mới phương thức hợp tác giữa hai nước và giải quyết các vấn đề quốc tế và khu vực. Thành tựu nổi bật nhất của quan hệ hợp tác chính trị Việt Nam – Lào trong giai đoạn này là hai nước vẫn kiên định giữ vững định hướng chính trị theo con đường xã hội chủ nghĩa.
Tháng 10 năm 1991, đồng chí Cayxỏn Phômvihản, Tổng Bí thư Đảng Nhân dân Cách mạng Lào và Đoàn đại biểu cấp cao Đảng Nhân dân Cách mạng Lào thăm chính thức Việt Nam. Hai bên khẳng định quyết tâm trước sau như một tăng cường, củng cố và nâng cao quan hệ đoàn kết đặc biệt Lào – Việt Nam, Việt Nam – Lào, đẩy mạnh hợp tác kinh tế, định kỳ trao đổi cấp Thứ trưởng Ngoại giao giữa hai nước nhằm phối hợp chặt chẽ các hoạt động ngoại giao trên các diễn đàn quốc tế.
Từ đó đến nay, trung bình mỗi năm, hai Đảng cử trên 30 đoàn từ cấp Trung ương đến cấp tỉnh sang trao đổi với nhau những kinh nghiệm về giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa, về công tác tư tưởng, lý luận, công tác dân vận. Quan hệ giữa các bộ, ban, ngành, đoàn thể, địa phương, nhất là các tỉnh biên giới kết nghĩa đều có những trao đổi hợp tác và mối quan hệ đó ngày càng đi vào chiều sâu với nội dung thiết thực và có hiệu quả. Đặc biệt, hai bên phối hợp nghiên cứu, biên soạn công trình Lịch sử quan hệ đặc biệt Việt Nam Lào, Lào Việt Nam (1930 2007) nhằm tổng kết quá trình liên minh chiến đấu và hợp tác toàn diện Việt Nam – Lào, Lào – Việt Nam, đúc kết những bài học kinh nghiệm phục vụ cho việc tiếp tục xây dựng và phát triển quan hệ đặc biệt Việt Nam – Lào, Lào – Việt Nam lên một tầm cao mới.
          Mối quan hệ đặc biệt Việt Nam -Lào, Lào -Việt Nam quý báu và thiêng liêng đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại đúc kết trong 4 câu thơ bất hủ:
"Thương nhau mấy núi cũng trèo,
Mấy sông cũng lội, mấy đèo cũng qua.
Việt - Lào, hai nước chúng ta,
Tình sâu hơn nước Hồng Hà, Cửu Long".
          Chủ tịch Kayxỏn Phômvihản cũng đã khẳng định: "Trong lịch sử cách mạng thế giới, đã có nhiều tấm gương chói sáng về tinh thần quốc tế vô sản, nhưng chưa ở đâu và chưa bao giờ, có được sự đoàn kết liên minh chiến đấu đặc biệt, lâu dài và toàn diện như quan hệ Lào - Việt Nam"; "Núi có thể mòn, sông có thể cạn, song tình nghĩa Lào - Việt Nam mãi mãi vững bền hơn núi, hơn sông".
Cùng với cả nước, mối quan hệ giữa tỉnh Quảng Trị với hai tỉnh Savẳn nakhệt, Salavăn của nước Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào cũng không ngoài truyền thống quý báu đó.
Phát huy truyền thống trong chiến đấu, ngày nay trong sự nghiệp xây dựng đất nước, với lợi thế Quảng Trị có chung 206 km đường biên giới, chính quyền 3 tỉnh Quảng Trị, Savẳnnakhệt và Salavăn thường xuyên phối hợp tổ chức các cuộc hội thảo quảng bá đầu tư, cải cách thủ tục hành chính tại cửa khẩu Quốc tế Lao Bảo, Đensavẳn và cửa khẩu Quốc gia La Lay nhằm khuyến khích giao lưu phát triển kinh tế, thương mại, du lịch và tạo điều kiện bà con 2 bên biên giới qua lại thăm thân, trao đổi hàng hoá, tham quan, du lịch... Quan hệ buôn bán giữa các doanh nghiệp và các tổ chức kinh tế của Quảng Trị và các tỉnh biên giới của Lào từng bước được xác lập và bước đầu đạt kết quả  tốt. Các Công ty du lịch của 3 tỉnh Quảng Trị - Việt Nam, Savẳnnakhệt - Lào và Mụcđahản - Thái Lan đã có các chương trình hợp tác đưa đón khách tham quan du lịch theo tour " Một ngày ăn cơm 3 nước" ngày càng thu hút nhiều khác trong và ngoài nước. Các Sở, Ban, ngành, đoàn thể, tổ chức xã hội, các lực lượng Công an, Quân sự, Bộ đội biên phòng, Hải quan tỉnh Quảng Trị và tỉnh Savẳnnakhệt, tỉnh Salavăn định kỳ có các cuộc gặp gỡ giao lưu, học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau. Công an, Biên phòng các huyện biên giới cũng thường xuyên phối hợp với nhau trong công tác nắm tình hình, điều tra cơ bản bổ sung các tuyến điểm, địa bàn trọng điểm để hoàn chỉnh kế hoạch đấu tranh phòng chống tội phạm. Nhờ vậy, đường biên, cột mốc giữa các tỉnh luôn được bảo vệ nguyên trạng; tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trong khu vực biên giới của hai bên luôn được giữ vững.
Hiện nay, các thế lực thù địch đang thực hiện các âm mưu “diễn biến hòa bình” với nhiều thủ đoạn nhằm phá hoại, chia rẽ tình đoàn kết hữu nghị đặc biệt Việt- Lào và công cuộc xây dựng CNXH ở mỗi nước. Hai Đảng, hai Nhà nước Việt Nam- Lào tiếp tục khẳng định ý chí, quyết tâm tăng cường quan hệ hữu nghị hợp tác toàn diện nhằm góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ cách mạng ở mỗi nước, giữ gìn và phát triển tình hữu nghị láng giềng gắn bó keo sơn này.
Để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ vẻ vang đó, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân tỉnh Quảng Trị cùng với Đảng bộ, chính quyền và nhân dân 2 tỉnh Quảng Trị, Savẳnnakhệt, Salavăn sẽ làm hết sức mình, tiếp tục đổi mới phương thức, nội dung, cơ chế  phù hợp trên tất cả các lĩnh vực hoạt động thúc đẩy quan hệ hữu nghị hợp tác toàn diện lên tầm cao mới và càng phát triển bền vững.


          1 Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội 1998, t.7, tr.424.









5 nhận xét:

  1. Khó khăn là thế, gian khổ là thế nhưng anh em Việt Nam-Lào vẫn cùng nhau sát cánh chiến đấu giành độc lập nước nha, mong rằng tình cảm ấy sẽ "mãi mãi tươi đẹp, đời đời bền vững".Và mong rằng có dịp mình sẽ được đến thăm đất nước anh em Lào

    Trả lờiXóa
  2. Việt Là hai nước chúng ta
    Tình sâu như nước Hồng Hà Cửu Long

    Trả lờiXóa
  3. cảm ơn bài viết nhé. mình làm cái bài dự thi

    Trả lờiXóa
  4. Viet Lao mai la anh em, lang gieng tot

    Trả lờiXóa
  5. việt lào hai nước chúng ta
    tình sâu như nước hồng hà cửu long

    Trả lờiXóa

Blogger templates

Blogger news

Blogroll

Archive

Total Pageviews

Tổng số lượt xem trang

Ad

Follow us on Facebook :P

Your Page links

Được tạo bởi Blogger.

Blog Archive

Followers

Hot Topics