Thứ Bảy, 29 tháng 12, 2012


“Chữ nhẫn quý hơn vàng”
Từ xa xưa, tổ tiên ta muốn các thế hệ con cháu luôn luôn nhớ và thực hiện đức tính "nhẫn" đã nghĩ ra cách, dùng kim loại chế tác một cái vòng xỏ vào ngón tay để luôn nhắc nhở ta, rèn luyện lời ăn tiếng nói, hành vi cử chỉ sao cho tốt đẹp, gọi đó là cái "nhẫn".Đức tính nhẫn nại được biểu hiện ra bên ngoài là sự khiêm hạ kính nhường; tiềm ẩn nơi tâm là lặng lẽ chiếu soi. Người có tính nhẫn nại luôn đủ sức dung nạp tất cả những tạp loạn do hoàn cảnh hay con người đưa đến, không sợ bị quấy rầy; người có tính nhẫn nại luôn đủ sức quán chiếu những tạp niệm vọng tưởng trong tâm, hóa giải phiền não. 
Suốt chiều dài lịch sử đất nước, trước những biến cố lịch sử, đức nhẫn nại của người Việt Nam đã thể hiện rõ hơn bao giờ hết. Họ đã từng nén nhịn trước sự cai trị hà khắc của các triều đại phong kiến và cũng rất giỏi chịu đựng trước những thảm cảnh của quốc gia, dân tộc, trước những giai đoạn chiến tranh hỗn loạn, để từ đó mà đất nước Việt Nam  mới từng bước giành lấy độc lập, cuộc sống hạnh phúc và sự phát triển như ngày nay.
Giáo sư Vũ Trọng Khánh trong cuốn “Văn hóa gia đình Việt Nam” đã viết: “Được võ trang bằng chữ nhẫn, con người có thể có một sức mạnh tinh thần, sẵn sàng đối phó với bao thách đố, và tin tưởng vào tương lai. Biết nhẫn, là tạo cho mình cái tính: dũng cảm và bình tĩnh. Biết nhẫn là phải có tình, cái tình sâu sắc mà chân thành hơn bao giờ hết...Trong đấu tranh cách mạng, không biết nhẫn, không tạo ra được thời cơ và không đối phó được với bao nguy cơ dồn dập”. Chủ tịch Hồ Chí Minh là tấm gưong sinh động về thực hành chữ nhẫn- đây cũng là yếu tố làm nên cốt cách, đạo đức của Người và “văn hóa khoan dung Hồ Chí Minh”.
Trở lại lịch sử cách mạng và đức nhẫn nại mà Bác dạy cho thế hệ chúng ta:
Ngày 28.02.1946, Hiệp ước Hoa - Pháp được ký kết, theo đó Tưởng nhường cho Pháp được đưa quân ra miền Bắc Việt Nam thay thế quân Tưởng làm nhiệm vụ giải giáp quân Nhật. Pháp nhường cho Tưởng một số quyền lợi kinh tế, chính trị ở Trung Quốc. Sau khi ký kết, quân Tưởng không chịu về nước mà vẫn cố tình ở lại nước ta tranh thủ vơ vét. Quân Pháp do lực lượng có hạn nên muốn đàm phán với ta để được hòa bình đem quân ra miền Bắc. Trong khi đó, bọn tay sai của Tưởng (Việt quốc, Việt cách) lại ra sức kích động, ngăn cản ta đàm phán với Pháp, âm mưu đẩy ta vào cuộc chiến tranh quá sớm khi lực lượng chưa chuẩn bị xong. Cách mạng Việt Nam đứng trước một tình thế hiểm nghèo, nhân dân Việt Nam đứng trước sự lựa chọn giữa một trong hai con đường: đánh hay là hòa với Pháp. Với cái tâm trong sáng (một lòng vì nước, vì dân) và lòng dũng cảm, Đảng, Chính phủ ta, đứng đầu là Hồ Chủ tịch, quyết định nhân nhượng nhưng có tính nguyên tắc: “hòa để tiến”. Ngày 6.3.1946, Hiệp định sơ bộ giữa Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa với chính phủ Cộng hòa Pháp (đại diện là Xanh -tơ-nuy) đã được ký kết. Nhân cơ hội này, bọn phản động trong nước điên cuồng bôi nhọ, vu cho Bác và Chính phủ là “bán nước”, “phản bội lợi ích dân tộc”… Lịch sử sau này đã chứng minh hành động của Bác là cực kỳ sáng suốt và đúng đắn: Hiệp định sơ bộ 6.3.1946 rõ ràng là bước đi ngoạn mục để đuổi 20 vạn quân Tàu Tưởng ra khỏi miền Bắc, tránh việc cùng một lúc ta còn yếu phải đối phó với nhiều kẻ thù; buộc Chính phủ Pháp phải công nhận trên pháp lý Việt Nam là một quốc gia tự do; kéo dài thêm một thời gian hòa bình quý báu để xây dựng lực lượng, chuẩn bị cuộc kháng chiến lâu dài mà ta biết rằng sẽ không tránh khỏi; đồng thời, thể hiện thiện chí hòa bình của ta, tranh thủ thêm sự đồng tình ủng hộ của dư luận tiến bộ trên thế giới. Giáo sư Vũ Trọng Khánh nhận định rất xác đáng rằng: “Không biết nhẫn, Hồ Chí Minh không ký được Hiệp định mùng 6 tháng ba”.
Tháng 5.1946, khi Hồ Chủ tịch sang Pháp đàm phán đã gửi gắm, dặn dò lại cho quyền Chủ tịch nước Huỳnh Thúc Kháng một câu nổi tiếng: “Dĩ bất biến, ứng vạn biến”. Ý sâu xa của Bác là: cần vì cái chung mà tạm gác việc riêng, hãy vì cái đại cục mà bỏ qua cái tiểu tiết, phải đặt vận mệnh quốc gia, an ninh của dân tộc lên trên hết. Đó cũng là một biểu hiện sinh động của việc hiểu và vận dụng chữ nhẫn vào thời điểm đặc biệt của lịch sử nước nhà: Tính mục đích phải luôn cứng rắn nhưng biện pháp để đạt mục đích phải hết sức linh hoạt, mềm dẻo. Chính nhờ thực hiện đúng tư tưởng chỉ đạo này mà cụ Huỳnh và Chính phủ đã lãnh đạo giữ vững được chính quyền cách mạng còn non trẻ, đập tan âm mưu đảo chính của bọn Việt gian phản động, tiêu biểu là khám phá và đưa ra ánh sáng vụ án phố Ôn Như Hầu.
Chữ nhẫn được Chủ tịch Hồ Chí Minh thực hành không chỉ trong đấu tranh cách mạng mà cả trong quan hệ đồng chí, đồng bào. Các nhà nghiên cứu thống nhất đi đến nhận xét: Ở Hồ Chí Minh, nhẫn không phải là “dĩ hòa vi quý” mà là hình thức đấu tranh: đấu tranh thầm lặng, đấu tranh có lý, có tình để đi đến thắng lợi cuối cùng theo tinh thần: dùng sức tối thiểu mà giành thắng lợi tối đa. Nhẫn là kết quả của sự kết hợp hài hòa và tuyệt vời giữa nhân và trí, giữa tình cảm nồng nàn và lý trí sáng suốt.
Năm tháng đi qua, thời thế biến đổi song nội hàm của chữ nhẫn theo tư tưởng và đạo đức Hồ Chí Minh, thiết nghĩ vẫn luôn có giá trị bất biến, xứng đáng là di sản tinh thần, là bài học quý báu trong mọi thời đại. Xét thấy trong bối cảnh tình hình chính trị trong nước và quốc tế hiện nay, chúng ta càng cần phải ngẫm lại những lời dạy của Bác. Nhẫn nại và sáng suốt luôn đi đôi với nhau, học cách nhẫn nại chúng ta có đủ sáng suốt để tìm được cách làm đúng. Ngược lại “giận mất khôn” luôn là nhược điểm của người thiếu nhẫn nại, từ đó dễ dẫn đến những sai lầm.
“Nhu thắng cương, nhược thắng cường” hãy xét trên thế và lực của người, của ta mà hành động. Xem lại gương xưa tích cũ, chúng ta thấy có biết bao bậc anh tài làm nên nghiệp lớn đều được hun đúc bởi lòng kiên trì nhẫn nại mà ra. Thời thế tạo anh hùng, nhưng một mai anh hùng sanh ra chưa phải thời thì phải biết kiên gan chờ đợi, phải biết gầy dựng, chắt chiu, đi từ nhỏ đến lớn, từ yếu đến mạnh… thế mới là tầm xa!
-----* Cây Sung Dâu *-----



Tháng 12, tháng kỷ niệm 40 năm chiến thắng “Hà Nội – Điện Biên phủ trên không”  - chiến thắng tiêu biểu cho khí phách anh hùng, tầm cao trí tuệ và bản lĩnh Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh.
Trong cuộc đụng đầu với không quân chiến lược Mỹ trên bầu trời thủ đô Hà Nội 12 ngày đêm cuối năm 1972, quân và dân Việt Nam chẳng những không bị khuất phục trước sức mạnh “không thể tưởng tượng nổi” của không lực Hoa Kỳ mà còn làm cho hàng chục “pháo đài bay B-52”, “con ma”, “thần sấm” phải phơi xác ngay trên mảnh đất thiêng Thăng Long - Đông Đô - Hà Nội. Trong điều kiện vô cùng thiếu thốn và khó khăn về cả sức người và sức của, chỉ bằng những vũ khí nếu so với địch có thể nói là quá thô sơ, nhưng con người Việt Nam không chỉ dung lực để chiến đấu mà dung trí để đấu tranh, để đánh bại kẻ thù xâm lược. Bằng trí tuệ và lòng kiên cường quân và dân ta đã làm nên một “Điện Biên Phủ thứ hai - Điện Biên Phủ trên không” tren bầu trời thủ đô Hà Nội, buộc đế quốc Mỹ phải ký Hiệp định Pa-ri, rút hết quân viễn chinh về nước, làm thay đổi căn bản cục diện chiến tranh, mở ra thời cơ chiến lược để toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. 
Sau 40 năm độ lùi thời gian chẳng thể làm mờ ký ức của một thời lửa đạn, mà càng làm cho chúng ta có cái nhìn toàn diện hơn, sâu sắc hơn về sự kiện lịch sử trọng đại này; về những nhân tố làm nên một trong những thắng lợi có ý nghĩa chiến lược quan trọng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.
Việt Nam ngày nay là một quốc gia  độc lập có chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, luôn sẵn sàng làm bạn với các nước trên thế giới. Tuy nhiên, cả xưa và nay Việt Nam vẫn là nơi “nhòm ngó, thèm thuồng” của các nước trên thế giới. Ngày nay, không còn bị tấn công về vũ trang, về súng đạn, hay thả bom nữa, cuộc chiến mà nhân dân Việt Nam đang phải đối đầu để bảo vệ đất nước, bảo vệ chủ quyền là cuộc chiến trên lĩnh vực ngoại giao. Các thế lực thù địch luôn tìm cách chống phá đất nước, nhằm lật đổ chế độ xã hội chủ nghĩa của ta, ông cha ta đã xây dựng nên đất nước này, chế độ này, thì nhiệm vụ của chúng ta ngày nay là phải bảo vệ nó. Hãy nhìn vào các chiến công đánh đuổi giặc ngoại xâm của quân và dân ta trước đây như chiến thắng “Điện Biên phủ trên không, “chiến thắng mùa xuân năm 1975”…để thấy rằng đối với người Việt Nam khi có kẻ thù xâm lược thì trong điều kiện nào, hoàn cảnh nào, kẻ thù dù là ai, trên lĩnh vực nào cũng sẽ dùng hết sức lực và trí tuệ để đấu tranh bảo vệ đất nước, bảo vệ xã hội chủ nghĩa.
                                                                                CHUỘT CON

Thứ Năm, 27 tháng 12, 2012

Tử Thi
Nhắc đến nhân quyền là nhắc đến những quyền cơ bản của con người từ khi sinh ra: quyền sống, quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc, quyền bình đẳng về pháp luật, quyền được bất khả xâm phạm về tính mạng, sức khỏe danh dự và nhân phẩm...và trong xã hội hiện đại ngày nay, Nhân quyền nên được nhìn nhận ở những góc độ khác nhau, rộng ra đó cũng là việc con người được quan tâm chăm lo tạo điều kiện phát triển toàn diện về mọi mặt từ vật chất và đời sống tinh thần. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng trăn trở: "Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành". Cơm áo, học hành của nhân dân chính là biểu hiện sâu sắc, cụ thể nhất của quyền con người, và phù hợp với sự phát triển ở một quốc gia có nền tảng kinh tế ở trình độ thấp, dân trí còn chưa phát triển. Cũng từ quan điểm này, việc nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân trở thành mục tiêu hàng đầu, nhất quán, xuyên suốt quá trình lãnh đạo cách mạng của Ðảng Cộng sản Việt Nam, được cụ thể hóa bằng pháp luật cùng các chính sách của Nhà nước trong từng thời kỳ.
Chương trình phát triển kinh tế xã hội các xã đặc biệt khó khăn vùng dân tộc thiểu số và miền núi (hay đọc là: "chương trình một-ba-năm"), là một trong các chương trình xóa đói giảm nghèo ở Việt Nam do Nhà nước Việt Nam triển khai từ năm 1998. Nếu bạn là một người thực sự hiểu về Nhân quyền thì đâyc hính là một biểu hiện của sự quan tâm của 1 nhà nước đối với đời sống người dân nghèo, đặc biệt là vùng dân tộc thiểu số. Chương trình được biết đến rộng rãi dưới tên gọi Chương trình 135. Điều hành Chương trình 135 là Ban chỉ đạo chương trình phát triển kinh tế xã hội các xã đặc biệt khó khăn miền núi và vùng sâu, vùng xa. Người đứng đầu ban này là một phó thủ tướng chính phủ; phó ban là Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc; và các thành viên là một số thứ trưởng các bộ ngành và các đại diện đoàn thể xã hội.
Mục tiêu cụ thể của Chương trình 135 là:
·         Phát triển sản xuất, nâng cao mức sống cho các hộ dân tộc thiểu số;
·         Phát triển cơ sở hạ tầng;
·         Phát triển các dịch vụ công cộng địa phương thiết yếu như điện, trường học, trạm y tế, nước sạch
·         Nâng cao đời sống văn hóa.
Thực hiện chương trình này, nhà nước đầu tư vốn cho nhân dân vùng dân tộc thiểu sô. diện đói nghèo vùng sâu vùng xa, các dự án nhà nước và nhân dân cùng làm (nhà nước và nhân dân cùng chịu kinh phí, cùng thi công), miễn giảm thuế, cung cấp miễn phí sách giáo khoa, một số báo chí, v.v...
Năm 1999, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt danh sách 1.870 xã đặc biệt khó khăn và các xã biên giới làm phạm vi của Chương trình 135. Các năm tiếp theo, do có sự chia tách và thành lập xã mới, nên số xã thuộc phạm vi Chương trình 135 đã vượt con số trên. Khi giai đoạn I kết thúc, Nhà nước Việt Nam đã chi khoảng 10 nghìn tỷ đồng, cả nước đã xây dựng và đưa vào sử dụng hơn 25 nghìn công trình thiết yếu các loại, góp phần thay đổi đáng kể bộ mặt nông thôn miền núi, cải thiện và nâng cao đời sống nhân dân.

Nội dung chính chương trình



Nhà nghèo trước khi chưa có chương trình
·         Hỗ trợ phát triển sản xuất và chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nâng cao trình độ sản suất của đồng bào các dân tộc. Đào tạo cán bộ khuyến nông thôn bản. Khuyến nông, khuyến lâmkhuyến ngư. Xây dựng các mô hình sản xuất có hiệu quả, phát triển công nghiệp chế biến bảo quản. Phát triển sản xuất: Kinh tế rừng, cây trồng có năng suất cao, chăn nuôi gia súc, gia cầm có giá trị.
·         Phát triển cơ sở hạ tầng thiết yếu ở các xã, thôn, bản đặc biệt khó khăn. Làm đường dân sinh từ thôn, bản đến trung tâm xã phù hợp với khả năng nguồn vốn, công khai định mức hỗ trợ nhà nước. Xây dựng kiên cố hóa công trình thủy lợi: Đập, kênh, mương cấp 1-2, trạm bơm, phục vụ tưới tiêu sản xuất nông nghiệp và kết hợp cấp nước sinh hoạt. Làm hệ thống điện hạ thế đến thôn, bản; nơi ở chưa có điện lưới làm các dạng năng lượng khác nếu điều kiện cho phép. Xây dựng các công trình cấp nước sinh hoạt cho cộng đồng. Xây dựng nhà sinh hoạt cộng đồng thôn, bản (tùy theo phong tục tập quán) ở nơi cấp thiết.
·         Đào tạo bồi dưỡng cán bộ cơ sở, kiến thức kĩ năng quản lý điều hành xã hội, nâng cao năng lực cộng đồng. Đào tạo nghề cho thanh niên 16 - 25 tuổi làm việc tại các nông lâm trường, công trường và xuất khẩu lao động.
·         Hỗ trợ các dịch vụ, nâng cao chất lượng giáo dục, đời sống dân cư hợp vệ sinh giảm thiểu tác hại môi trường đến sức khỏe người dân. Tiếp cận các dịch vụ y tế, bảo hiểm và chăm sóc sức khỏe cộng động.
Một chương trình đầy ý nghĩa, thực tế như vậy để góp phần xóa đói giảm nghèo, bình ổn đời sống dân cư, tạo lập cân bằng xã hội giữa vùng sâu vùng xa và vùng đồng bằng, miền xuôi và miền ngược, ai cũng có cơ hội và điều kiện phát triển đồng đều như nhau...Phải chăng đây là một bước đi đầy ý nghĩa trong chăm lo đời sống nhân dân của Nhà nước, Một giái pháp để tăng cường và  bảo đảm nhân quyền ở Việt Nam. Thế mà nhiều phần tử nước ngoài lại cho rằng nước mình bóp nghẹt nhân quyền là thế nào????? 

trelang.vn

Thứ Ba, 25 tháng 12, 2012

Trích: Trelangblogspotcom
LâmTrực@
Bên nhà con rối có bài "Quà Noel gửi Nguyễn Phương Uyên từ trái tim người lính" của tác giả Nguyễn Hàm Thuận Bắc, nhân danh người lính đảo Sơn Ca viết gửi Uyên, các bạn cứ vào mà đọc.

Thôi thì dù sao Uyên cũng là người, thương em nó ngu mà phạm tội nên chịu sự trừng phạt của pháp luật. Mùa đông lạnh giá xa nhà thì cơ khổ, lại phải đối mặt với những án tù thì thảm thương vô cùng. Uyên còn trẻ, tương lai còn dài và nếu biết hối cải mình tin em sẽ có thể làm lại. Nhưng thảm cảnh hiện giờ của em là rất đáng thương, vì lẽ đó gửi quà cho em là việc nên làm.

Trách Uyên nhỏ tuổi khờ dại thì ít mà căm phẫn bọn lừa gạt, rủ rê em tham gia chống lại tổ quốc thì nhiều. Nếu không giờ này em đã và đang tung tăng cùng bạn bè hưởng cái thú tự do của một sinh viên. Đáng trách thay những kẻ nhẫn tâm dụ dỗ em làm bậy, đáng trách hơn nữa, chúng lợi dụng em để thực hiện ý đồ đê tiện, đánh bóng tên tuổi. Ngay cả bố mẹ em, người thân của em cũng bị lợi dụng. Nhưng kẻ cơ hội chính trị không còn tính người đã mò đến tận nhà em để tư vấn, xúi giục gia đình em kiện cáo chính quyền, công an ngay sau khi em bị bắt với những giọng điệu lạc lõng. Tất cả những lời lẽ đó đã dần được phơi bày trước cuộc sống và người dân lương thiện không khó để nhận ra bởi sự thật không thể chối bỏ. 

Chuyện lùm xùm tưởng như đã đến hồi kêt, ấy vậy mà chúng đâu có tha cho em. Chúng bám đuổi, lợi dụng bằng cách tụng ca em như một anh hùng, tuổi trẻ tài cao, nếu không tỉnh táo em sẽ lại lạc đường.

Có điều là anh thấy là lạ khi mà một tên trốn đi lính nghĩa vụ bảo vệ tổ quốc lại dám nhân danh người lính đang làm nhiệm vụ bảo vệ tổ quốc nơi đầu sóng ngọn gió để tỏ lòng thương sót với Uyên. Liệu có tư cách không?

Có lẽ bị bắt giam vì hoạt động chống phá chính quyền nên giờ trong trại tạm giam, Uyên đang cố gắng tu tỉnh để sớm trở về với cộng đồng. Hãy tỉnh táo đừng nghe lời phỉnh nịnh từ những kẻ bán nước mượn danh dân chủ, mượn danh lòng yêu yêu nước. Sẽ chẳng có Chúa nào cứu được em ngoài chính em.

Một chị bán chuối chợ Bưởi đọc bài thơ này đã phải thốt lên rằng: "Uyên với chả ko Uyên, nhân dân cần lao chúng em chả quan tâm. Riêng cái tội ngu, để bọn phá thối nó lừa phỉnh rải truyền đơn, cờ ba que/sỏ lá và nhạo báng đồng tiền là đáng để bị cho vào trại giam  sám hối mục xương rồi, nói gì tới tội phản động và chống chế độ. Các anh các chị ngoài nước thấy cô bé xinh xắn dễ thương thì mủi lòng hùa theo kí cọt tâm thư, chứ nào có biết cái tâm địa rắn độc thờ cờ vàng và đặt 2kg thuốc nổ làm bằng phân u rê, cứt trâu cứt mèo gì đó để phá tượng đài lãnh tụ". 
Chuyện lá thư Noel và tâm thư của một số anh chị trí thức của làm mình nhớ đến một người bạn gian manh và sảo trá, nhưng nhiều người không biết. Mình phát hiện và khuyên bảo nhưng anh ta vẫn chứng nào tật ấy, tiếp tục lừa đảo. Tất nhiên, mình cạch mặt. Nhưng chớ trêu là sau khi mình cạch mặt, một số bạn bè lại xúm vào chỉ trích mình sao không chơi với người bạn kia? Nó có tội tình gì đâu? Thế mới hay những người chỉ trích người khác chưa chắc đã hieur sự việc mà làm theo tâm lý đám đông, nói tục là tâm lý bầy đàn.

Trở lại câu chuyện Uyên được một kẻ mạo nhận là chiến sĩ đảo Sơn Ca tặng QUÀ ngày Noel. Tặng thơ hay tặng quà mình cũng chẳng quan tâm. Nhưng nhân danh người lính đảo để tụng ca em như một anh hùng là điều không nên làm, it nhất là với một người đàng hoàng có năng lực hành vi, bởi ai cũng biết, Nguyên Phương Uyên phạm tội chống nhà nước. 

Hãy để cho em được yên, tĩnh tâm và sám hối ngõ hầu sớm trở về với cộng đồng.

LâmTrực@ viết lúc 0h00 ngày 26/12/2012

Mào đầu: Cho đến nay, nhiều sự thật đã dần được sáng tỏ. Mỗi sự thật đã lần lượt nói lên tiếng nói của mình trước lịch sử dân tộc. Sự kiện một số đảo ở quần đảo Trường Sa của Việt Nam rơi vào tay Philippines nằm trong bí mật đã lâu, làm cho nhiều kẻ chống đối nhà nước vin cớ lu loa Việt Nam để mất đảo. 

Nhưng sự thật chỉ có một.

LâmTrực@ xin giới thiệu với các bạn bài viết trên Thiềm Thừ, để các bạn hiểu sâu thêm vấn đề.

Nhiều người Việt ở nước ngoài hay nói Cộng sản yếu hèn, dâng nhiều đảo ở Trường Sa cho ngoại bang. Họ nói vậy, có lẽ vì họ ghét Cộng sản, vì họ không có thông tin, hoặc vì cả hai.

Nhưng mới rồi có nhà báo trong nước ra vẻ hiểu biết, nói Việt Nam Cộng hòa đã giữ nhiều đảo ở Trường Sa, chả để mất đảo nào, nay mình dở quá, để mất vào tay Trung Quốc bao nhiêu đảo.

Nói với bạn ý, Trung Quốc đã chiếm 7 đảo ở Trường Sa, nhưng chưa hề chiếm được đảo nào bộ đội ta đã đóng giữ. Gạc Ma bị Trung Quốc chiếm ngày 14-3-1988, khi công binh ta mới lên cắm cờ trên đảo vài giờ.

Nhân tiện cũng nói luôn, lâu nay mọi người thường chỉ nói đến việc Trường Sa bị Trung Quốc chiếm. Nhưng sự thực, Philippines còn chiếm đóng nhiều đảo ở Trường Sa hơn cả Trung Quốc. Có một bác ở hải ngoại nhắc đến việc nhiều đảo ở Trường Sa bị Philippines chiếm, đổ tội cho “bọn cầm quyền Cộng sản” chả biết giữ mấy đảo đó. Bác này nói đại ý, trên mấy đảo Phi đang chiếm giữ có cả bia chủ quyền lập từ thời Việt Nam Cộng hòa, chứng tỏ Cộng sản đã làm mất về tay Philippines các đảo, trước kia Việt Nam Cộng hòa giữ. Lập luận đến hay!

Một số đảo ở Trường Sa bị Philippines chiếm giữ từ bao giờ, như thế nào?

Năm 1956, sau khi tiếp thu từ Pháp quyền kiểm soát quần đảo Trường Sa, chính quyền Việt Nam Cộng hòa đã tổ chức thị sát, dựng bia chủ quyền ở một số đảo.

Năm 1963, Hải quân Việt Nam Cộng hòa đưa ba tàu là HQ-404 Hương Giang, HQ-01 Chi Lăng và HQ-09 Kì Hoà ra xây dựng lại bia chủ quyền Việt Nam tại một số đảo thuộc Trường Sa. Sách trắng năm 1975 về quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa của Bộ Ngoại giao Việt Nam Cộng hòa nêu rõ ngày xây dựng lại bia chủ quyền ở 6 đảo: ngày 19-5-1963, ở đảo Trường Sa; ngày 20-5-1963, ở đảo An Bang; ngày 22-5-1963, ở đảo Thị Tứ và Loại Ta; ngày 24-5-1963 ở đảo Song Tử Đông và đảo Song Tử Tây.

Nhưng năm 1970. Philippines đã tổ chức chiếm giữ đảo Song Tử Đông, đảo Thị Tứ, đảo Loại Ta và 4 đảo nữa. Domingo Tucay, năm 1970 là một trung úy trẻ tham gia cuộc hành quân đó kể lại, họ mang theo mật lệnh, được dặn đến tọa độ nhất định mới được mở ra. Có 7 đảo, bãi hoàn toàn hoang vắng, họ chiếm đóng dễ dàng. Chỉ khi tới đảo Song Tử Tây, họ thấy quân Việt Nam Cộng hòa đóng. “Chúng tôi báo về sở chỉ huy, được chỉ thị cứ để mặc họ”. Tucay nói.

Trong những đảo Philipines chiếm dịp đó có 6 đảo nổi, Thị Tứ là đảo lớn thứ nhì, Bến Lạc (Đảo Dừa) là đảo lớn thứ ba, Song Tử Đông là đảo lớn thứ năm ở quần đảo Trường Sa.

Theo như bài báo đăng lời Tucay kể chuyện, nhiều tháng sau khi Philippines chiếm đóng 7 đảo ở quần đảo Trường Sa, các nước khác mới biết.

Như vậy, câu hỏi về việc ai đã đế các đảo ở quần đảo Trường Sa mất vào tay Philippines đã có lời giải đáp rất rõ ràng.
-------------------------------------
Tham khảo: Báo Philippines nói về việc quân đội Philipines bí mật chiếm 7 đảo ở quần đảo Trường Sa.
http://www.abs-cbnnews.com/global-filipino/07/11/11/secret-mission-1970-put-ph-troops-spratlys
http://www.manilamaildc.net/navy-officer-tells-how-the-philippines-claimed-spratly-islets.html
Theo THIỀM THỪ

Blogger templates

Blogger news

Blogroll

Archive

Total Pageviews

Tổng số lượt xem trang

Ad

Follow us on Facebook :P

Your Page links

Được tạo bởi Blogger.

Blog Archive

Followers

Hot Topics