Thứ Tư, 27 tháng 2, 2013

CÂY SUNG DÂU
Thủy triều lên sẽ khiến những con thuyền nổi lên, nhưng những vấn đề về cấu trúc của con thuyền đang tiềm ẩn những lỗ hổng thì con thuyền sẽ bị chìm…
(Ảnh minh họa)
Sự chuyển giao quyền lực quan trọng của Đảng Cộng sản Trung Quốc đã tìm ra những lãnh đạo mới, và chínhnhững người đại diện cho thế hệ lãnh đạo mới của Trung Quốc sẽ phải đối mặt với những khó khan, thách thức lớn mà tiền bối của họ đã để lại.
Do chịu sự tác động của tình hình kinh tế thế giới ảm đạm, kinh tế Trung Quốc cũng đang ở vào giai đoạn giảm tốc và thậm chí là sụt giảm. Kỷ nguyên tương đối ổn định về chính trị đạt được thông qua tăng trưởng kinh tế nhanh chóng có thể đang dần đi đến hồi kết. Những vấn đề về cấu trúc ở nền kinh tế lớn thứ hai thế giới đang tiềm ẩn khả năng gây trở ngại đến việc gia tăng sự thịnh vượng của Trung Quốc.
Tập Cận Bình, tân Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, đến nay đã đưa ra một số cảnh báo gay gắt về mối đe dọa mà nạn tham nhũng đang gây ra ở Trung Quốc: “Trong những năm gần đây, những vấn đề bị dồn nén ở một số quốc gia đã gây ra sự oán hận của dân chúng, sự hỗn loạn xã hội cùng sự sụp đổ của các chính phủ, và nạn tham nhũng, hối lộ đã trở thành một nguyên nhân quan trọng. Một loạt thực tế đã cho chúng ta thấy rằng nếu như tham nhũng trở nên nghiêm trọng, chắc chắn nó sẽ làm Đảng và Nhà nước diệt vong. Chúng ta phải thận trọng. Trong những năm gần đây, đã có những trường hợp vi phạm nghiêm trọng những nguyên tắc kỷ luật và luật pháp trong Đảng. Đây là những trường hợp cực kỳ xấu xa về mặt bản chất và phá hoại nghiêm trọng nền chính trị, khiến nhân dân bị sốc”. Nạn tham nhũng trong Đảng hết sức nghiêm trọng, xã hội phát triển mất cân bằng, sự phân hóa hai cực cùng với sự tranh giành của các nhóm lợi ích khiến mâu thuẫn gia tăng gay gắt. Các nhà lãnh đạo Trung Quốc đã kịch liệt lên án nạn tham nhũng, vốn đã ăn sâu vào xã hội Trung Quốc trong hàng nghìn năm qua. Đảng Cộng sản Trung Quốc cũng không nằm ngoài xu hướng lịch sử này. Tuy nhiên, những lời cảnh báo của ông Tập Cận Bình đã vượt qua những sự vô vị trước đó, và nhà lãnh đạo này đã đặc biệt nhấn mạnh sự thận trọng với tình trạng tham nhũng gia tăng sẽ “chắc chắn làm diệt vong Đảng và Nhà nước.” Hơn nữa, việc Tập Cận Bình đề cập trực tiếp đến Mùa Xuân Arập đã thể hiện một nhận thức rõ ràng về mối đe dọa ngay trước mắt mà nạn tham nhũng đang gây ra cho các nhà lãnh đạo Trung Quốc hiện nay. Lời cảnh báo này của ông Tập Cận Bình cũng bao hàm một gợi ý ngầm về khả năng kinh tế Trung Quốc sẽ gặp phải những khó khăn nghiêm trọng. Một công trình nghiên cứu gần đây của Trung tâm Nghiên cứu Pew đã phát hiện ra rằng vấn đề lớn nhất và dễ nhận thấy ở Trung Quốc là lạm phát. Những lo ngại về các quan chức tham nhũng là vấn đề xếp ở vị trí số hai – một nửa dân số Trung Quốc coi tham nhũng là một vấn đề lớn – tăng mạnh so với mức 39% cách đây 4 năm. Những lo ngại về sự gia tăng khoảng cách chênh lệch giàu nghèo cũng cao hơn so với cuộc khảo sát trước đó. 
Không chỉ vậy, các thế lực “Tân Cương độc lập” và “Tây tạng độc lập” ngày càng hoạt động mạnh, đe dọa nghiêm trọng sự thống nhất quốc gia và ổn định xã hội… Đây đều là những khảo nghiệm và thách thức gay gắt đối với đội ngũ lãnh đạo mới của Trung Quốc. tiềm tàng về sự bất ổn định lớn hơn.
(Ảnh minh họa)
Về mặt quốc tế, cùng với sự trỗi dậy của Trung Quốc, áp lực mà các nước phương Tây và đặc biệt là Mỹ tạo ra đối với Trung Quốc ngày càng lớn. Trung Quốc phải chuẩn bị một giai đoạn mới cho mối quan hệ Trung-Mỹ, nhất là khi chính sách đối ngoại của Bắc Kinh cần thời gian để điều chỉnh sau giai đoạn chuyển đổi lãnh đạo. Báo cáo của Đại hội Đảng Cộng sản Trung Quốc lần thứ 18 cho rằng Trung Quốc sẽ cố gắng thiết lập các mối quan hệ ổn định lâu dài và phát triển lành mạnh với các nước lớn khác. Là cường quốc thế giới quan trọng nhất, Mỹ sẽ tiếp tục là một ưu tiên trong chính sách đối ngoại của Trung Quốc. Hai nước sẽ bước vào một giai đoạn điều chỉnh chính sách và thích nghi trong năm 2013, nhưng Trung Quốc sẽ gặp khó khăn trong việc tìm kiếm các biện pháp để đối phó với chiến lược châu Á-Thái Bình Dương mới của Mỹ.
Bên cạnh đó, sự hoài nghi của các nước xung quanh đối với Trung Quốc ngày một sâu sắc, mâu thuẫn giữa các nước như Nhật Bản, Philíppin, Việt Nam… với Trung Quốc ngày càng gay gắt. Trung Quốc phải giải quyết những thách thức xuất phát từ các tranh chấp trên Biển Hoa Đông và Biển Đông. Tranh chấp quần đảo Điếu Ngư đã trở thành trở ngại ngoại giao lớn trong quan hệ Trung-Nhật,…
Hơn nữa, khả năng lan rộng sự bất đồng chính kiến hiện nay đã ăn sâu vào gốc rễ của sự thay đổi thực tế nhân khẩu học của Trung Quốc. Khi Tập Cận Bình và Lý Khắc Cường đại diện cho một thế hệ lãnh đạo mới của Trung Quốc, bản chất nhân khẩu học rộng lớn hơn của dân tộc Trung Quốc đang có những thay đổi quan trọng. Thế hệ những người già của Trung Quốc, những người vẫn nhớ đến nạn đói tràn lan và tình cảnh nghèo khó khắp đất nước trong những năm 1950-1960, đã quá hài lòng với sự khá giả tương đối của đất nước Trung Quốc hiện đại nên sẽ không muốn gây bất ổn cho hệ thống hiện nay. Thế hệ những người Trung Quốc trẻ hơn, những người sinh ra vào giai đoạn bùng nổ dân số trong khoảng thời gian từ những năm 1980-1990, sẽ ít kiên nhẫn hơn với nạn tham nhũng tràn lan và sự chuyên quyền, độc đoán về chính trị./.


Mũ Bạc
Mới đây tôi có đọc qua một vài bài của ông trí thức nào đó nói rằng đảng cộng sản Việt Nam nên bỏ điều 4 hiến pháp và cho các đảng phái khác cạnh tranh, giống như kinh tế thị trường để phát triển tốt hơn, mới thấy các ông thật là ấu trĩ, biết một mà không biết mười! 
Không ai dám khẳng định là nhiều đảng sẽ tốt hơn là một đảng. Quản lý một đất nước mà đơn giản như một cái chợ, hay đi mua hàng, không thích chỗ này thì đi chỗ khác, tôi e rằng chẳng có đất nước nào trên thế giới này phải đói nghèo, chẳng xã hội nào trên thế giới này phải có cảnh người trong một nước tranh giành, chém giết lẫn nhau.
Các nhà “rân chủ” ủng hộ đa nguyên, đa đảng thì lại đem nền dân chủ của Mỹ ra để so sánh. Cho rằng ở Mỹ mới có dân chủ thực sự, là do họ có đa đảng. Thực chất ra sao, hay xem chính người Mỹ nói về nước Mỹ.  Họ nói rằng, nước Mỹ là một nước “tự do” người dân tự do biểu tình, chửi bới, báo chí tự do phanh phui những chuyện nhạy cảm, xuyên tạc, bôi xấu lẫn nhau vì sự cạnh tranh của các đảng phái này, nhằm hạ uy tín của đảng phái kia. Nhưng điều đó không phải là bản chất thực sự của dân chủ.
Giáo sư trường Đại học bang Indiana, Paul Mishler cho thấy rõ thực chất vấn đề: “Mọi đói nghèo, thất nghiệp, thất học... đều do lỗi của hệ thống, lỗi từ chủ nghĩa tư bản Mỹ gây ra”; “Nước Mỹ tự xưng là đa đảng nhưng thực chất chỉ là một đảng, đó là đảng của chủ nghĩa tư bản, dù là đảng Cộng hòa hay Dân chủ”.
Hai đảng Dân chủ và Cộng hòa ở Mỹ đều được tài trợ bởi những tập đoàn kinh tế và họ đều ủng hộ, bảo vệ các tập đoàn kinh tế, làm thiệt hại lợi ích nhân dân. Đa đảng ở Mỹ không đem lại dân chủ, thực tế, hệ thống 2 Đảng ở Mỹ loại trừ bất kỳ tiếng nói của một quan điểm thiểu số nào, bác bỏ bằng bất cứ giá nào.
Có thể rút ra một số vấn đề sau: thứ nhất, chế độ đa đảng của nước Mỹ “thực chất chỉ là một đảng”, là sự cầm quyền của đảng tư sản; thứ hai, dân chủ ở nước Mỹ là dân chủ tư sản, không phải là dân chủ của đa số, không thực hiện quyền lực thực sự thuộc về nhân dân; thứ ba, thực chất đa đảng đối lập trong xã hội tư bản chỉ nhằm mục tiêu duy nhất là bảo đảm quyền lực cho giai cấp tư sản.
Bất cứ một nền dân chủ nào, cũng đều nhằm đảm bảo sự thống trị của giai cấp thống trị, cầm quyền. Dân chủ không phụ thuộc vào cơ chế độc đảng hay đa đảng, mà nó phụ thuộc vào bản chất của chế độ cầm quyền phục vụ cho giai cấp nào. Bản thân nền dân chủ tư sản, dù có được tô vẽ như thế nào chăng nữa, thì nền dân chủ đó vẫn là nền dân chủ của giai cấp tư sản, nhằm bảo đảm sự thống trị, bóc lột của giai cấp tư sản đối với xã hội và lao động.
Rồi có thể kể đến Đức, một nước nhiều đảng tham chính hơn hầu hết các nước phát triển khác. Chỉ riêng trên cấp liên bang đã có 5 đảng ngồi trong hạ viện, còn các cấp khác thì tùy theo từng vùng, từng tiểu bang, có những nơi đảng phát xít mới còn có ghế trong cơ quan đại diện. Sự cạnh tranh trên chính trường Đức là vô cùng khốc liệt. 
Song “Quan tham, tham nhũng, nhiều công trình chậm tiến độ, hao phí tiền của dân, nhiều quan tham bất chấp dư luận,....” Thượng vàng hạ cám, nước Đức có đầy đủ hết. 
Vấn đề ở chỗ, Đức là một đất nước phát triển từ lâu đời, có luật pháp nghiêm minh, trình độ dân trí cao và quan trọng nhất là có rất nhiều đảng tham chính, tam quyền phân lập, vậy thì tại sao vẫn có tất cả những gì ở các quốc gia khác đều có? 
Như vậy phải chăng đa đảng là nền tảng cho một xã hội tiến lên?
Ở Việt Nam, lịch sử cách mạng đã có và cũng đã phủ định đa đảng
Từ khi thành lập đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn là đội tiên phong, lãnh tụ chính trị của giai cấp công nhân và toàn thể dân tộc Việt Nam, là người lãnh đạo và tổ chức mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Qua sự “sàng lọc” dữ dội của lịch sử những thập niên đầu thế kỷ 20, dân tộc Việt Nam, nhân dân Việt Nam đã lựa chọn Đảng Cộng sản Việt Nam là người dẫn dắt mình đi đến tương lai hạnh phúc.
Tháng 8/1945, Đảng ta lãnh đạo toàn dân tộc đứng lên khởi nghĩa giành chính quyền lập nên Nhà nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa. Trong những ngày đầu giữ chính quyền và nền độc lập dân tộc, Đảng ta đã tự tuyên bố giải tán và Chính phủ do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu đã mở rộng thành phần cho mọi tổ chức, chính đảng cùng tham gia lãnh đạo đất nước. Chính phủ đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa đã có các đảng như Đảng Dân chủ, Đảng Xã hội, Quốc dân đảng tham gia. Sau này còn Đảng Dân chủ, Đảng Xã hội và Đảng Cộng sản, đến năm 1988, Đảng Dân chủ và Đảng Xã hội tuyên bố tự giải tán.
Toàn bộ quá trình cách mạng Việt Nam và hoạt động của nhà nước Việt Nam mới là do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, nền chính trị của nước ta vẫn là nền chính trị nhất nguyên. Chế độ chính trị đó là do nhân dân ta lựa chọn từ chính những trải nghiệm trong quá trình lịch sử đấu tranh giải phóng dân tộc, kháng chiến chống xâm lược và trong sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc. Dưới sự lãnh đạo duy nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam, sự nghiệp cách mạng nước ta đã đem lại những quyền cơ bản nhất cho quốc gia, dân tộc và toàn thể nhân dân lao động Việt Nam, nhân dân ta thực sự được làm chủ cuộc sống của mình, được sống cuộc đời tự do, hạnh phúc.
Lịch sử đã vậy, trong bối cảnh Việt nam hiện thời cũng thế, nếu độc đảng mà quản lý tốt thì vẫn hơn gấp vạn lần đa đảng không quản lý được! Tôi cứ cho rằng đa đảng thì có cạnh tranh, nhưng ai dám bảo đảm sự cạnh tranh đó là công bằng? Trong khi đó mọi thứ công bằng ở trên thế gian này chỉ là tương đối, thì liệu cạnh tranh giữa các đảng có phải là những gì người dân thấy, nghe, hay là khi ấy sẽ trở thành những băng đảng vì quyền lợi của mình mà bỏ qua những quyền lợi khác?
Vì vậy, đọc bài viết của vị trí thức kia tôi thật sự thấy buồn. Tôi chỉ là thường dân, chắc bằng cấp không thể bằng được vị trí thức kia, nhưng mạo muội đưa ra vài lập luận và dẫn chứng như thế. Lợi hại của đa đảng hay độc đảng như thế nào tôi tin là hầu hết chúng ta đã hiểu được. Mong là những người như vị trí thức kia chỉ là số ít, nếu không tương lai của đất nước quả thật đáng lo lắng.

Thứ Ba, 26 tháng 2, 2013
Hải An

Ngày 4-2-2013, một đoàn 15 người, đại diện cho 72 người đã ký ngày 19-1-2013 bản Kiến nghị về sửa đổi Hiến pháp 1992 (xin được gọi tắt là Kiến nghị 72) và cho hơn 2000 người đến thời điểm đó đã ký ủng hộ Kiến nghị 72, do Tiến sĩ Nguyễn Đình Lộc, nguyên Bộ trưởng Bộ Tư pháp làm trưởng đoàn, đã gặp đại diện của Ủy ban Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 (dưới đây gọi tắt là Ủy ban) và trao bản Kiến nghị 72 cùng với một Dự thảo Hiến pháp mới (dưới đây gọi tắt là Dự thảo Hiến pháp 2013). Đoàn đã được Ủy ban tiếp đón trọng thị và tiếp nhận Kiến nghị có 72 chữ ký cùng với Dự thảo Hiến pháp 2013. Một số phóng viên báo đến dự và sau đó một số báo trong đó có báo in đã đưa tin về cuộc gặp này.
Sau một thời gian ngắn khi gửi “bản Kiến nghị 72 cùng với một Dự thảo Hiến pháp mới”, Đoàn “Kiến nghị 72” đã nhận được công văn trả lời số 227/UBDTSDHP, ngày 7-2-2013 của Ủy ban do ông Phan Trung Lý, ủy viên Ủy ban, Trưởng Ban Biên tập ký, gửi tới ông Nguyễn Đình Lộc. Ủy ban đã sớm trả lời và xin trân trọng thông báo văn bản này tới tất cả những người ký Kiến nghị 72 và đồng bào trong, ngoài nước.
Thêm chú thích
Toàn văn Công công văn trả lời số 227/UBDTSDHP, ngày 7-2-2013 của Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992
Nhưng sau khi nhận được công văn trả lời của Ủy ban Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992, Công văn này 227/UBDTSDHP, ngày 7-2-2013 được đăng tải trên các trang Blog, các trang mạng có địa chỉ nước ngoài kèm theo những lời phản biện với nội dung trái chiều. Trong đó trên địa chỉ:
http://chauxuannguyenblog.wordpress.com/2013/02/20/thong-bao-cua-nhom-soan-thao-va-ky-dau-tien-kien-nghi-72-ve-cong-van-tra-loi-cua-uy-ban-du-thao-sua-doi-hien-phap-1992/ có đăng tải nội dung “Thông báo của Nhóm soạn thảo và ký đầu tiên Kiến nghị 72 về công văn trả lời của Ủy ban Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992” với 03 điểm. Trong khuôn khổ bài viết này tôi xin đi vào luận điểm thứ nhất mà họ nhấn mạnh: “Trong một nước mà tất cả quyền lực thuộc về nhân dân và Nhà nước là của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, thì quyền lập hiến là quyền sinh ra các quyền khác (lập pháp, hành pháp và tư pháp) phải thuộc về toàn dân, chứ không thể thuộc về bất kỳ một tổ chức hay cơ quan nào, kể cả Quốc hội. Kiến nghị 72 đã nhấn mạnh quan điểm đó và nêu cách làm cùng với thời gian cần thiết để bảo đảm thực quyền của nhân dân quyết định Hiến pháp.
Nghị quyết số 38/2012/QH13 ngày 23/11/2012 của Quốc hội dựa vào Hiến pháp hiện hành quy định Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp. Công văn trả lời của Ủy ban theo đúng Nghị quyết đó và yêu cầu người đóng góp ý kiến sửa đổi Hiến pháp phải “thực hiện đúng quy định của pháp luật và nghị quyết của Quốc hội”.
Theo chúng tôi, quy định nêu trên của Hiến pháp hiện hành phủ nhận quyền lập hiến của nhân dân; đây chính là điều đầu tiên cần sửa trong Hiến pháp và quá trình sửa đổi Hiến pháp lần này phải thấu suốt tinh thần tôn trọng quyền của nhân dân quyết định Hiến pháp.”
P/s: Trong bối cảnh hiện nay, khi Quốc hội tiến hành trưng cầu dân ý để tiến hành kiến nghị sửa đổi Hiến pháp năm  1992, việc góp ý của bất kỳ người dân Việt Nam dù ở trong và ngoài nước đều rất đáng quý và trân trọng. Chúng ta đang hướng tới việc sửa đổi Hiến pháp năm 1992 thành một bản Hiến pháp toàn diện nhất, phục vụ cho việc xây dựng và phát triển đất nước trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay. Việc 72 nhân sỹ, trí thức gửi đến Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 là một tín hiệu đáng trân trọng khi đội ngũ nhân sỹ, trí thức tham gia vào công việc hệ trọng của đất nước.
Và đúng như chính họ nói: “…quyền lập hiến là quyền sinh ra các quyền khác (lập pháp, hành pháp và tư pháp) phải thuộc về toàn dân…..” Và để có một bản Hiến pháp và toàn diện nhất thì bên cạnh sự đóng góp đông đảo quần chúng thì việc Quốc hội – cơ quan chủ quản, chủ trì việc sửa đổi Hiến Pháp là một điều kiện tất yếu để chúng ta có thể hoàn thành trách nhiệm nặng nề này.

Tuy nhiên, họ lại đưa ra một ý kiến: “Nghị quyết số 38/2012/QH13 ngày 23/11/2012 của Quốc hội dựa vào Hiến pháp hiện hành quy định Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp. Công văn trả lời của Ủy ban theo đúng Nghị quyết đó và yêu cầu người đóng góp ý kiến sửa đổi Hiến pháp phải “thực hiện đúng quy định của pháp luật và nghị quyết của Quốc hội”.
Theo chúng tôi, quy định nêu trên của Hiến pháp hiện hành phủ nhận quyền lập hiến của nhân dân; đây chính là điều đầu tiên cần sửa trong Hiến pháp và quá trình sửa đổi Hiến pháp lần này phải thấu suốt tinh thần tôn trọng quyền của nhân dân quyết định Hiến pháp.
Nghị quyết số 38/2012/QH13 ngày 23/11/2012 của Quốc hội là một văn bản pháp lý có ý nghĩa mở đầu cho việc kiến nghị sửa đổi Hiến pháp năm 1992 và thực sự nó tạo ra một đợt sinh hoạt chính trị sâu rộng trong mọi tầng lớp nhân dân và trong các giai tầng xã hội. Và trong đợt sửa đổi Hiến pháp này, Quốc hội có một vai trò cực kỳ quan trọng, đó chính là cầu nối giữa lòng dân và các cơ quan, cá nhân được giao sửa đổi Hiến pháp.
Mặt khác, khi ban hành Nghị quyết số 38/2012/QH13 ngày 23/11/2012, Quốc hội cũng hướng đến nhằm phát huy quyền làm chủ của nhân dân, nâng cao nhận thức, trách nhiệm của nhân dân về việc sửa đổi Hiến pháp và thi hành Hiến pháp. Theo đó, các đối tượng lấy ý kiến bao gồm: các tầng lớp nhân dân; các cơ quan nhà nước ở trung ương và địa phương, mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội, các học viện, trường đại học, viện nghiên cứu; các cơ quan thông tấn, báo chí…Việc lấy ý kiến nhân dân được thực hiện dưới hình thức: Góp ý trực tiếp hoặc bằng văn bản gửi đến các cơ quan, tổ chức; Thảo luận tại các hội nghị, hội thảo, tọa đàm; Thông qua Trang thông tin điện tử của Quốc hội htttp://duthaoonline.quochoi.vn và các phương tiện thông tin đại chúng…
Nhân dân tham gia đóng góp ý kiến về toàn bộ Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992. Bên cạnh đó, các cơ quan, tổ chức, cá nhân căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình, tập trung đóng góp ý kiến sâu về những nội dung liên quan trực tiếp đến phạm vi lĩnh vực hoạt động của cơ quan, tổ chức mình và những vấn đề mà cơ quan, tổ chức, cá nhân quan tâm.
Xuất phát từ bản chất của Quốc hội với tính cách là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất và cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân nên trong cấu trúc bộ máy nhà nước, Quốc hội luôn được xác định là thiết chế quyền lực trung tâm. Do vậy, quyền lực của Quốc hội phải là quyền lực có tính chi phối đối với các lĩnh vực quyền lực nhà nước khác. Tức là xét trên phương diện thẩm quyền, Quốc hội cần nắm giữ những quyền hạn mà việc thực thi chúng có ý nghĩa quyết định đối với toàn bộ hoạt động nhà nước. Ở đây xin nêu một số nét khái quát:
Trước hết là quyền làm luật: Quốc hội là một cơ quan thực hiện quyền lập pháp. Do vậy, quyền làm luật là thẩm quyền cơ bản nhất của Quốc hội. Để thực hiện quyền này, bảo đảm vai trò quyết định của Quốc hội đối với toàn bộ hoạt động lập pháp, thông qua từng giai đoạn của quá trình làm luật cần xử lý các mối quan hệ:
a) Quan hệ với các chủ thể sáng kiến pháp luật theo luật định.
b) Quan hệ với cơ quan, tổ chức dự thảo luật.
c) Quan hệ với Uỷ ban thường vụ Quốc hội- cơ quan ban hành pháp lệnh.
Đối với mối quan hệ thứ nhất: Quốc hội phải là cơ quan có quyền chấp thuận hoặc bác bỏ các sáng kiến pháp luật. Ở đây cần xem xét lại thực tiễn thông qua các kế hoạch làm luật hàng năm. Việc xây dựng kế hoạch làm luật chỉ được tiến hành sau khi Quốc hội chấp thuận sáng kiến pháp luật mà các chủ thể đưa ra. Điều này có ý nghĩa, các chủ thể có quyền nêu sáng kiến pháp luật theo quy định của Hiến pháp, phải trình bày trước Quốc hội sáng kiến của mình. Nếu Quốc hội chấp thuận, thì sáng kiến đó mới được đưa vào kế hoạch làm luật. Điều cốt lõi là thông qua sáng kiến pháp luật, chứ không phải là kế hoạch làm luật. Làm như vậy không chỉ bảo đảm quyền quyết định của Quốc hội đối với việc đề xuất sáng kiến pháp luật, mà còn loại bỏ ngay từ đầu các dự kiến chưa thật chín muồi đủ các căn cứ thuyết phục về tính cấp bách, tính khả thi của từng dự án luật.
Đối với mối quan hệ thứ hai: cần khẳng định, Quốc hội phải được quyền chủ trì mọi quá trình soạn thảo văn bản luật. Lâu nay, quyền soạn thảo văn bản của đa số dự luật đều thuộc về các cơ quan của Chính phủ. Vai trò của Quốc hội mới chỉ dừng lại ở việc thẩm định dự án thông qua các Uỷ ban tương ứng và thảo luận thông qua tại kỳ họp đối với các dự án đã được chuẩn bị. Do vậy, quyền làm luật của Quốc hội bị hạn chế trên thực tế và chỉ thực hiện ở những giai đoạn cuối, nên không ít dự luật không thật sự phản ánh ý chí của các đại biểu Quốc hội. Để khắc phục tình trạng này, Quốc hội cần thành lập các Ban soạn thảo, do các Uỷ ban của Quốc hội chủ trì với sự tham gia của đại diện các cơ quan của Chính phủ, các tổ chức hữu quan, các nhà khoa học, các chuyên gia pháp luật để trực tiếp tiến hành các hoạt động nghiên cứu, xây dựng dự thảo luật. Làm như vậy vừa tránh được tính cục bộ, bản vị của các bộ, các ngành, tổ chức mà lợi ích của họ gắn liền với các quy định của pháp luật, vừa bảo đảm quyền làm luật trực tiếp của bản thân Quốc hội, vai trò của các đại biểu Quốc hội trong suốt quá trình làm luật.
Về mối quan hệ thứ ba, cần làm sáng tỏ bản chất và giá trị pháp lý của các pháp lệnh do Uỷ ban thường vụ Quốc hội thông qua. Trong điều kiện hiện nay, việc UBTVQH thông qua các pháp lệnh có thể là cần thiết và hợp lý. Tuy nhiên, về lý luận xuất hiện một mâu thuẫn trong thẩm quyền là, nếu quan niệm pháp lệnh là một văn bản pháp luật có giá trị điều chỉnh như một đạo luật, thì sẽ làm phương hại đến quyền làm luật của Quốc hội. Bởi lẽ, chỉ có Quốc hội mới có quyền lập pháp. UBTVQH là một cơ quan của Quốc hội, về nguyên tắc không thể là một cơ quan có quyền lập pháp một cách độc lập. Giải pháp cho tình huống này có thể là cần xem pháp lệnh do UBTVQH ban hành là các giải pháp tình thế trong điều kiện Quốc hội không hoạt động thường xuyên. Mọi pháp lệnh do Uỷ ban Thường vụ Quốc hội thông qua phải được đệ trình Quốc hội tại kỳ họp gần nhất, để các đại biểu Quốc hội thảo luận, cho ý kiến và quyết định bằng một nghị quyết. Nếu Quốc hội chấp thuận nội dung pháp lệnh, thậm chí sửa chữa, bổ sung, pháp lệnh ấy sẽ trở thành đạo luật. Còn ngược lại, nếu Quốc hội không chấp thuận, pháp lệnh mặc nhiên mất hiệu lực thi hành.
Thứ hai,  Quyền quyết định các vấn đề quan trọng: Trong đó cần chú trọng đến quyền quyết định chính sách tài chính, tiền tệ quốc gia, quyết định dự toán ngân sách nhà nước và phân bổ ngân sách nhà nước, phê chuẩn quyết toán ngân sách nhà nước... Vấn đề ngân sách nhà nước luôn có ý nghĩa quyết định đối với toàn bộ hoạt động nhà nước. Do vậy, quyền quyết định ngân sách nhà nước cần phải khẳng định thuộc về Quốc hội và chỉ thuộc về Quốc hội mà thôi. Thẩm quyền quyết định ngân sách nhà nước cần được cụ thể hoá trong đạo luật về Quốc hội và tiếp tục khẳng định trong luật về ngân sách nhà nước. Trong lĩnh vực này, Quốc hội cần được tự mình xác định nhu cầu tài chính và tự quyết định tài chính cho tổ chức và hoạt động của mình mà không lệ thuộc vào quy định và sự cấp phát ngân sách từ phía Chính phủ. Mặt khác, cần phải có cơ chế thích hợp để bảo đảm quyền quyết định ngân sách nhà nước trong thẩm quyền của Quốc hội có được một ý nghĩa thực tế. Tức là hành vi phê chuẩn dự toán ngân sách hay không phê chuẩn dự toán ngân sách do Chính phủ đệ trình, phải có ý nghĩa quyết định đối với toàn bộ hoạt động tài chính công trong năm tài chính. Và các nguồn chi ngân sách chỉ có thể được khởi động khi dự toán ngân sách được phê chuẩn. Để bảo đảm việc phê chuẩn dự toán ngân sách có ý nghĩa thực quyền, cần nâng cao khả năng kiểm soát tài chính của các cơ quan thuộc Quốc hội, các đại biểu Quốc hội trong suốt quá trình xây dựng dự toán ngân sách. Có như vậy mới khắc phục tình trạng “tiền trảm, hậu tấu” của Chính phủ trước Quốc hội trong các quan hệ tài chính và ngân sách.
Thứ ba, Quyền kiểm soát của Quốc hội đối với các quan hệ quyền lực và việc thực hiện quyền lực nhà nước trên thực tế: Cần phải nhấn mạnh rằng, Quốc hội trong quan hệ phân công quyền lực là cơ quan thực hiện quyền lập pháp, nhưng về vị trí lại là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất và là cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân. Do vậy, Quốc hội có quyền kiểm soát toàn bộ quá trình thực thi quyền lực nhà nước, kể cả quyền hành pháp và quyền xét xử.
******
***
Như vậy, không thể khẳng định rằng: việc quy định của Hiến pháp về vị trí, vai trò của Quốc hội trong việc xây dựng Luật nói chung và dự thảo sửa đối Hiến pháp năm 1992 nói riêng là “phủ nhận quyền lập hiến của nhân dân; đây chính là điều đầu tiên cần sửa trong Hiến pháp và quá trình sửa đổi Hiến pháp lần này phải thấu suốt tinh thần tôn trọng quyền của nhân dân quyết định Hiến pháp.” Quyền lập hiến là của toàn dân. Trong các bản Hiến pháp của nước ta từ trước đến nay, Quốc hội là thiết chế do toàn dân bầu ra luôn được Hiến định, là một trong những nội dung cơ bản của đạo luật gốc. Điều này được thể hiện ở chỗ, trong Hiến pháp năm 1946, đã có Chương III – Nghị viện nhân dân với 21 điều; Chương IV trong Hiến pháp 1959 với 18 điều; Chương VI trong Hiến pháp 1980 với 16 điều và trong bản Hiến pháp 1992 hiện hành là Chương V có 18 điều.
Ý nghĩa quan trọng hàng đầu của chế định Quốc hội trong các bản Hiến pháp thể hiện ở chỗ, đây là cơ quan đại diện dân cử cao nhất ở nước ta, như Điều 6 của Hiến pháp 1992 khẳng định: Nhân dân sử dụng quyền lực Nhà nước thông qua Quốc hội và Hội đồng Nhân dân là những cơ quan đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân, do nhân dân bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân dân. Điều này cũng đồng thời khẳng định quyền lực của nhân dân được Quốc hội đại diện, thay mặt nhân dân để quyết định những công việc trọng đại của đất nước. Đây cũng là nguồn cội của nguyên tắc tổ chức quyền lực nhà nước tập trung, thống nhất với Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất ở nước ta.
Năng lực, hiệu quả hoạt động của Quốc hội phụ thuộc không chỉ vào bản thân các cơ cấu tổ chức của Quốc hội, quyền hạn của Quốc hội theo luật định, mà còn phụ thuộc rất nhiều vào bộ máy giúp việc cho hoạt động của Quốc hội, cơ chế kiểm tra, giám sát của một hệ thống các cơ quan. Hiện nay chúng ta có một một hệ thống các tổ chức trợ giúp hoạt động của Quốc hội và cho các đại biểu Quốc hội. Các tổ chức nghiên cứu, thông tin, các tổ chức tư vấn cho các hoạt động lập pháp, hoạt động kiểm tra, giám sát cần được thành lập nhằm cung cấp các dịch vụ cho các Uỷ ban của Quốc hội và cho các đại biểu Quốc hội. Chính vì vậy, chúng ta tin tưởng Quốc hội sẽ hoàn thành trọng trách của mình trong đợt sửa đổi Hiến pháp lần này nói riêng và các công việc hệ trọng khác của đất nước, xứng đáng là người đại diện cho nhân dân, là tiếng nói của nhân dân, nơi nhân dân có thể gửi gắm những tâm tư, nguyện vọng.

Chủ Nhật, 24 tháng 2, 2013
Hải An
Như đã nói ở bài viết trước, lần này tôi xin quay lại bàn về các nội dung còn lại trong bài viết: “Viết và viết lại lịch sử” của tác giả Nguyễn Hưng Quốc được đăng tải trên Blog cùng tên của Ông.
Trước khi đi vào bàn luận về những nội dung còn lại trong bài viết, tôi xin nói về giá trị của lịch sử trong tiến trình lịch sử dân tộc. Trên tất cả mọi ý nghĩa, không ai có thể phủ nhận vai trò của nhận thức lịch sử trong quá trình vận động phát triển. Ở Việt Nam thời quân chủ, sử học và yêu cầu nhận thức lịch sử được đặc biệt coi trọng, từ các chính thể, giới nho sĩ, rồi ở một mức độ nhất định, phổ biến trên bình diện xã hội. Trong cuộc đấu tranh giành độc lập thời kỳ Pháp thuộc, truyền thống yêu nước quật khởi của dân tộc luôn được nhấn mạnh và thực sự là một nội lực tinh thần to lớn có ý nghĩa quyết định đến thắng lợi của sự nghiệp cách mạng. Sau ngày Cách mạng Tháng Tám thành công, nhất là sau ngày miền Bắc được giải phóng, việc nghiên cứu lịch sử, nhất là lịch sử dân tộc, được Đảng, Nhà nước ta đặc biệt quan tâm. Nhiều cơ sở đào tạo và nghiên cứu lịch sử được thành lập tại các trường đại học, các cơ quan nghiên cứu khoa học Trung ương và địa phương. Một nền sử học Việt Nam mới hình thành và phát triển và đã đạt được những thành tựu to lớn, trên cả hai phương diện nghiên cứu và đào tạo, đóng góp quan trọng vào sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Gần đây, trước những bức xúc về vấn đề dạy và học sử và sự thờ ơ của một bộ phận xã hội đối với lịch sử dân tộc, ngành Lịch sử đang tập trung vào việc biên soạn các bộ sách mang tính phổ thông nhằm phổ biến tri thức lịch sử và đặc biệt là sự tìm tòi, đổi mới trong cách thể hiện vừa đảm bảo tính hệ thống, vừa đảm bảo tính hấp dẫn và đặc biệt là tính khách quan và trung thực của sử học.
Trong bối cảnh hiện nay, với sự đa dạng của tư liệu như Hồi ký của các nhà cách mạng tiền bối, những luận điệu giả khoa học của các nhân vật bên ngoài không có thiện cảm với chính quyền thì việc trao đổi, chia sẻ tìm hiểu tiểu sử thông qua những người khác cần phải thận trọng, bởi có thể sẽ sự nhầm lẫn do những người cung cấp thông tin có thể nhớ nhầm hay nhớ không đủ đặc biệt những người lớn tuổi thường không nhớ chính xác về thời gian. Bên cạnh đó cũng lưu ý khi sử dụng hồi kí để tìm hiểu tiểu sử, hồi kí có khi chỉ là sự miêu tả, kể lại những sự kiện, sự việc tuy nhiên chi tiết, diễn biến cụ thể về những sự kiện, sự việc ít khi được nói tới. Do vậy khi nghiên cứu, tìm hiểu thông qua những hồi kí chú ý đặt ra những câu hỏi liên quan đến quá trình diễn biến và cách thức của mỗi sự kiện, sự việc xảy… Viết lịch sử xã hội là viết về những người bình thường trong xã hội, lịch sử xã hội có phạm vi rộng nhưng vấn đề nêu lên rất cụ thể và cần đặt ra những câu hỏi trong tìm hiểu, nghiên cứu…
Trong khi đó, để cổ súy và kêu gọi viết viết lại lịch sử dân tộc, Ông Nguyễn Hưng Quốc nói: “Có thể nói, nhà cầm quyền không phải chỉ muốn giữ độc quyền trong việc quản lý hiện tại mà còn cả trong việc quản lý quá khứ. Họ muốn thực dân hóa cả ký ức của dân tộc. Chửi nhà Nguyễn, rồi sau đó, công nhận một số đóng góp của nhà Nguyễn là quyết định của họ. Phủ nhận Tự Lực văn đoàn, rồi sau đó, ca ngợi Tự Lực văn đoàn cũng là quyết định của họ. Cả việc viết và viết lại lịch sử đều nằm trong tay họ”.
Quá khứ và hiện tại vốn dĩ có mối quan hệ gắn bó, có mối liên hệ mật thiết với nhau. Để phục vụ việc phát triển đất nước Đảng, nhà nước ta đang huy động nội lực dân tộc mà yếu tố hàng đầu là khơi gợi ý thức dân tộc, nhắc lại quá khứ hào hùng dân tộc để hướng tới xây dựng động lực phấn đấu cho tương lai. Việc “quản lý quá khứ ” như Ông Nguyễn Hưng Quốc gọi cũng là hợp lẽ nếu đứng trên lập trường tôn trọng sự thật và đảm bảo tính khách quan.
Mặt khác, trong thời đại hiện nay cùng với sự bùng nổ khoa công nghệ và sự tiếp cận các thông tin khoa học không còn là chuyện khó khăn. Cho nên, với những thông tin không chính thống, sai lệch thì việc kiểm nghiệm rất là dễ dàng.
Không phải ai cũng viết được lịch sử dân tộc. Như đã nhấn mạnh ở bài viết trước,Người tham gia viết và biên soạn lịch sử cần có những phẩm chất nhất định và họ phải có được những kỹ năng thuộc về chuyên môn để có thể hoàn thành công việc này.” Nhưng chính bản thân họ cũng chưa là con người hoàn hảo (Nhân bất thập toàn)  cùng những khó khăn trở ngại mang tính khách quan khiến công việc viết và biên soạn lịch sử không thể hoàn toàn chuẩn xác.
Chính vì vậy, nếu có chuyện: Chửi nhà Nguyễn, rồi sau đó, công nhận một số đóng góp của nhà Nguyễn là quyết định của họ. Phủ nhận Tự Lực văn đoàn, rồi sau đó, ca ngợi Tự Lực văn đoàn cũng là quyết định của họ” thì cũng là chuyện bình thường. Điều quan trọng là sau khi biết được sai sót đó, những người viết, biên soạn lịch sử dám nhìn nhận vào sự thật và có động thái sửa chữa để đảm bảo giá trị và tính khách quan.
Lịch sử dân tộc vốn có những khúc quanh, có những điều ẩn khuất mà bản thân những người đang sống tại hiện tại do năng lực, tư liệu chưa có thể soi xét hết được. Nó cần có quá trình để hiện nguyên sự thật. Chuyện về Tự Lực Văn Đoàn không có gì quá bất thường trong dòng chảy văn học cả. Dân chủ như Hoa Kỳ, sách truyện của đại văn hào Henry Miller cũng có thời kỳ bị cấm lưu hành trong xã hội Hoa Kỳ (nhưng rất thịnh hành ở Pháp). Cấm tác phẩm của Henry Miller rồi lại ca ngợi Henry Miller cũng là chuyện của nền dân chủ Hoa Kỳ. Tương tự, thuyết tiến hoá của Darwin thì trước đây Vatican cấm, nay cũng đã được Vatican nhìn lại. Và chuyện Galileo cũng thế thôi.
Ông Nguyễn Hưng Quốc viết tiếp: “Với lịch sử xa, còn thế; với lịch sử gần, lại càng hơn thế nữa. Tất cả những gì liên quan đến chiến tranh Việt Nam và sau đó, đều do họ viết. Theo quan điểm của họ. Tuyệt đối không thể có một tiếng nói nào khác. Họ giành sự độc quyền ấy một cách dứt khoát, kiên quyết, không hề nhân nhượng. Và, cho đến nay, không hề mất cảnh giác.
Không thể nói là họ không thành công. Họ thành công ít nhất ở ba khía cạnh: Một, họ khống chế toàn bộ nội dung lịch sử được giảng dạy trong hệ thống giáo dục từ tiểu học đến trung học và đại học. Không có một tiếng nói khác nào lọt vào được để làm nhiễu những tiếng nói của họ. Hai, họ cũng kiểm soát được toàn bộ các xuất bản phẩm chính thức ở trong nước. Một vài cách nhìn khác với quan điểm chính thống của họ đều hoặc bị cấm đoán hoặc bị thu hồi hầu như ngay tức khắc. Ba, cái lịch sử được họ viết hoặc viết lại ấy có khá nhiều ảnh hưởng đến giới học giả Tây phương, những người, một phần, có khuynh hướng chỉ tin cậy vào các văn bản viết; phần khác, do cả tin hay do tính toán, thường sử dụng các văn bản viết được xuất bản trong nước để làm tài liệu tham khảo, có khi là nguồn tài liệu duy nhất. Khi ảnh hưởng lên được giới học giả Tây phương, họ cũng có thể gây ảnh hưởng đến nhiều người thuộc nhiều thành phần khác nhau trên thế giới.”
Ở nhận định này, tôi cho rằng tôi tập trung vào 03 khía cạnh mà Ông Nguyễn Hưng Quốc  bảo “Họ thành công ít nhất ở ba khía cạnh”.
Ở khía cạnh thứ nhât: Ông Nguyễn Hưng Quốc cho rằng: họ khống chế toàn bộ nội dung lịch sử được giảng dạy trong hệ thống giáo dục từ tiểu học đến trung học và đại học. Không có một tiếng nói khác nào lọt vào được để làm nhiễu những tiếng nói của họ.”
Ở bài viết trước có lúc tôi đã cho rằng, Ông Quốc không có tư duy của một người bình thường khi có những nhận định ngây ngô và nực cười. Và đến đây, tôi lại tiếp tục khẳng định ông Quốc không có tư duy của một người bình thường. Chế độ hiện chúng ta đang cố gắng xây dựng là chế độ XHCN – đó là bước phát triển và kết quả của cuộc đấu tranh gian lao của dân tộc ta trong 21 năm kháng chiến chống  Mỹ cứu nước, giải phóng Miền Nam, thống nhất đất nước. Việc dạy lịch sử trong hệ thống giáo dục từ tiểu học đến trung học và đại học là một cách mà chúng ta cho thế hệ hôm nay biết về lịch sử hào hùng của dân tộc. Nếu nói rằng, việc làm này là “khống chế toàn bộ nội dung lịch sử” thì trên thế giới này có quốc gia nào không hành xử như vậy.
Từ nhận thức sai lệch đó, Ông Quốc còn thốt lên một câu đầy ngây ngô và ấu trĩ: “Không có một tiếng nói khác nào lọt vào được để làm nhiễu những tiếng nói của họ.
Ở khía cạnh thứ hai: Ông Nguyễn Hưng Quốc cho rằng: “họ cũng kiểm soát được toàn bộ các xuất bản phẩm chính thức ở trong nước. Một vài cách nhìn khác với quan điểm chính thống của họ đều hoặc bị cấm đoán hoặc bị thu hồi hầu như ngay tức khắc.
Ở nhận định này, lâu nay chúng ta chưa chấp nhận việc tư nhân tham gia vào quá trình xuất bản các văn hóa phẩm. Điều này, xuất phát từ những lí do đặc thù như theo Luật Xuất bản (sửa đổi) cơ quan, tổ chức được thành lập nhà xuất bản gồm: cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội ở trung ương và cấp tỉnh; đơn vị sự nghiệp công lập ở trung ương, tổ chức chính trị - xã hội - nghề nghiệp ở trung ương trực tiếp sáng tạo ra tác phẩm và tàiliệu khoa học, học thuật. Nhà xuất bản cũng được tổ chức và hoạt động theo loại hình đơn vị sự nghiệp công lập hoặc doanh nghiệp kinh doanh có điều kiện do Nhà nước là chủ sở hữu. 
Để đẩy mạnh xã hội hóa hoạt động xuất bản, luật đã mở rộng hợp lý sự tham gia của tư nhân trong các khâu khác nhau của hoạt động xuất bản. Nhưng do hoạt động xuất bản thuộc lĩnh vực văn hóa – tư tưởng, cho nên để bảo đảm điều kiện có thể quản lý, kiểm soát được nội dung văn hóa – tư tưởng của xuất bản phẩm, Luật chưa cho phép tư nhân thành lập nhà xuất bản.
Ở khía cạnh thứ ba: Ông Nguyễn Hưng Quốc cho rằng: cái lịch sử được họ viết hoặc viết lại ấy có khá nhiều ảnh hưởng đến giới học giả Tây phương, những người, một phần, có khuynh hướng chỉ tin cậy vào các văn bản viết; phần khác, do cả tin hay do tính toán, thường sử dụng các văn bản viết được xuất bản trong nước để làm tài liệu tham khảo, có khi là nguồn tài liệu duy nhất. Khi ảnh hưởng lên được giới học giả Tây phương, họ cũng có thể gây ảnh hưởng đến nhiều người thuộc nhiều thành phần khác nhau trên thế giới.”
Phải chăng ở nhận xét này, Ông Nguyễn Hưng Quốc đang đánh giá cao những nhà viết sử dân tộc Việt Nam hiện nay. Họ không chỉ phản ảnh lịch sử dân tộc họ còn gây nên những hiệu ứng xã hội rộng lớn. Những giá trị lịch sử của dân tộc Việt Nam “có khá nhiều ảnh hưởng đến giới học giả Tây phương” (Như chính Ông Quốc nhận xét). Và đấy theo tôi đó là một tín hiệu mà chúng ta nên vui. Kho tàng lịch sử dân tộc Việt Nam với những sự kiện hào hùng gắn với cuộc kháng chiến chống ngoại xâm đã được thế giới biết đến, cảm thông và có những sự ủng hộ nhất định. Cũng có lúc Ông Nguyễn Hưng Quốc những lời đánh giá có lý, có tình.
Nhưng Ông Nguyễn Hưng Quốc lại tiếp tục có những bình luận tiếp theo: “Có điều, sự thành công của họ không trọn vẹn và càng lúc càng không trọn vẹn. Càng ngày càng có nhiều tiếng nói phi chính thống xuất hiện và để lại những dấu ấn lớn và sâu trong quần chúng, đặc biệt, giới trí thức. Lý do đầu tiên là nhiều người, ngay trong nội bộ đảng, không chấp nhận tham vọng độc quyền viết hoặc viết lại lịch sử của nhà cầm quyền. Họ muốn nói lên những sự thật mà họ từng nghe, thấy hoặc tham gia vào việc thực hiện. Ngày trước, có khi muốn nhưng người ta không dám bắt tay vào việc viết. Vì sợ. Sau ngày chủ nghĩa Cộng sản ở Nga và Đông Âu bị sụp đổ, người ta biết chắc những tiếng nói chính trực của mình, một lúc nào đó, sẽ được lắng nghe, bởi vậy, đâm ra tự tin và hứng khởi để làm việc hơn. Lý do thứ hai là nhờ internet. Ở Việt Nam, nhà nước có thể kiểm soát dễ dàng hệ thống báo chí và xuất bản. Bất cứ cuốn sách hay bài báo nào đi ngược lại quan điểm của họ, họ đều có thể tịch thu. Nhưng việc kiểm soát trên internet không phải dễ. Càng không dễ khi có thêm lý do thứ ba này nữa: sự liên thông giữa trong và ngoài nước. Trước, trong là trong và ngoài là ngoài. Năm 1979, để chuyển được tập thơ của mình ra với thế giới, Nguyễn Chí Thiện đã phải chấp nhận 12 năm tù (1979-1991). Năm 1982, chỉ vì cầm tập thơ chép tay Về Kinh Bắc từ Hà Nội vào Sài Gòn, nhà thơ Hoàng Hưng đã bị bắt và ở tù 39 tháng, còn Hoàng Cầm, tác giả, thì bị 16 tháng tù.”
Đằng sau dánh giá về sự đánh giá mang tính tích cực thì Ông Quốc lại có những nhận định hết sức mâu thuẫn. Ông cho rằng, hiện nay đang có nhiều luồng phản ứng lại những tư liệu lịch sử chính thống, “Càng ngày càng có nhiều tiếng nói phi chính thống xuất hiện và để lại những dấu ấn lớn và sâu trong quần chúng, đặc biệt, giới trí thức.” Để lí giải cho nhận định này Ông Quốc cho đưa ra lí do là: “Lý do đầu tiên là nhiều người, ngay trong nội bộ đảng, không chấp nhận tham vọng độc quyền viết hoặc viết lại lịch sử của nhà cầm quyền…” Tôi thử hỏi Ông Quốc rằng, với căn cứ đâu để ông nói trong nội bộ Đảng không chấp nhận tham vọng độc quyền viết hoặc viết lại lịch sử của nhà cầm quyền…Đọc đến đây tôi nghĩ rằng Ông Quốc cũng chỉ là kẻ chuyên có những suy luận viển vông, không căn cứ, mối liên hệ giữa các vấn đề mà ông suy luận hoàn toàn không có. Ông có một óc tưởng tượng đầy phi lý và kỳ ảo. Ông Quốc viện dẫn luận điểm để làm rõ lí do thứ nhất bằng một mớ ví dụ khó hiểu: “Họ muốn nói lên những sự thật mà họ từng nghe, thấy hoặc tham gia vào việc thực hiện. Ngày trước, có khi muốn nhưng người ta không dám bắt tay vào việc viết. Vì sợ. Sau ngày chủ nghĩa Cộng sản ở Nga và Đông Âu bị sụp đổ, người ta biết chắc những tiếng nói chính trực của mình, một lúc nào đó, sẽ được lắng nghe, bởi vậy, đâm ra tự tin và hứng khởi để làm việc hơn.” Nói về việc này, bản thân tôi không phủ nhận tính sát thực và khách quan của nó vì đơn giản ông Quốc không nêu lên một con người, một tư liệu lịch sử cụ thể nào. Hay chăng Ông Quốc đang khiến người đọc bị hoài nghi vào chính cách lập luận có phần không khoa học và không được rành mạch lắm của chính ông.
Ông Nguyễn Hưng Quốc tiếp tục viết: “Chính nhờ ba lý do kể trên, trong những năm vừa qua, chúng ta được đọc khá nhiều cuốn sách hay về lịch sử đương đại Việt Nam được nhìn từ nhiều góc độ và qua kinh nghiệm của nhiều người khác nhau. Trong số đó, nổi bật nhất là các cuốn Hồi ký 1940-1945 của Trần Văn Giàu, Hồi ký của một thằng hèn của nhạc sĩ Tô Hải,  Hồi ký của giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh, Hồi ký không tên của Lý Quý Chung, Ký ức và suy nghĩ của cựu Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Trần Quang Cơ, hồi ký Tôi bị bắt của nhà thơ Trần Vàng Sao, và gần đây nhất, cuốn Bên thắng cuộc, gồm hai tập, của nhà báo Huy Đức.”
Như đã luận giải ở bài viết trước, việc viết lịch sử là một công việc hệ trọng. Người tham gia viết và biên soạn lịch sử cần có những phẩm chất nhất định và họ phải có được những kỹ năng thuộc về chuyên môn để có thể hoàn thành công việc này. Chúng ta không thể tin tưởng hoàn toàn giao phó cho một người từng tham gia cuộc chiến tranh đó viết về lịch sử giai đoạn ấy bởi bất kỳ ai từng tham gia cuộc chiến dù ở quy mô nào đều mang trong mình định kiến, những suy nghĩ mang tính chủ quan, phiếm định. Họ không đáp ứng được yêu cầu khách quan trong quá trình tiến hành viết lịch sử. Mặt khác, chúng ta tiếp cận những tư liệu do những người trong cuộc mang lại với tư cách là những tài liệu tham khảo, những nhân chứng sống viết nên lịch sử. Đảng, Nhà nước luôn trân trọng và ghi nhớ những chiến công và tầm vóc nhưng nó không đồng nghĩa với việc họ được quyền viết lịch sử.
Chúng ta không phủ nhận những tư liệu được rút ra từ những cuốn hồi ký “Hồi ký 1940-1945” của Cố GS Trần Văn Giàu, Hồi ký của một thằng hèn của nhạc sĩ Tô Hải, Hồi ký của giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh, Hồi ký không tên của Lý Quý Chung, Ký ức và suy nghĩ của cựu Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Trần Quang Cơ, hồi ký Tôi bị bắt của nhà thơ Trần Vàng Sao….nhưng những người viết, biên soạn lịch sử luôn hiểu rằng sản phẩm do họ tạo nên và phổ biến rộng rãi trong xã hội có sức ảnh hưởng rộng lớn, lâu dài nên chúng ta không thể tùy tiện đưa vào những tư liệu từ những cuốn Hồi ký dù uy tín và ảnh hưởng của người viết ra có đến đâu. Chính những cuốn hồi ký có nhiều lí do khác nhau, có thể là do thời gian khiến những tư liệu không còn vẹn nguyên, thậm chí còn sai lệch. Cho nên, đạo đức, lương tâm của người viết lịch sử không cho phép họ tiếp cận một cách y nguyên. Có chăng, họ tiếp cận với tư cách là một kênh thông tin tham khảo mà thôi.
Riêng về cuốn “Bên thắng cuộc”, gồm hai tập, của nhà báo Huy Đức” thì đó là một sự xuyên tạc, xúc phạm trắng trợn, công khai về lịch sử dân tộc.
Để có thêm tư liệu về tác phẩm này, các bạn hãy vào những bài viết sau:
Và để kết thúc cho bài viết đầy tranh cãi của mình, Ông Nguyễn Hưng Quốc viết: “Người ta thường nói: Lịch sử luôn luôn được viết bởi những người chiến thắng. Điều đó nhất định là đúng. Nhưng có lẽ chỉ đúng với hai điều kiện: Một, những kẻ chiến thắng ấy nắm quyền cai trị một quãng thời gian dài, thật dài, đủ để rửa sạch mọi ký ức của cả cộng đồng (như các triều đại phong kiến ngày xưa); và hai, dân chúng hoàn toàn cam chịu im lặng, hoặc nếu không, cũng không có bất cứ phương tiện hay cơ hội nào để lên tiếng. Với cả hai điều kiện ấy, nhà cầm quyền Việt Nam đều không có. Họ có thể đốt sạch sách vở ở miền Nam nhưng lại không thể đốt chúng ở ngoại quốc, trong cộng đồng người Việt ở hải ngoại cũng như trong các thư viện lớn của thế giới. Họ có thể kiểm soát hệ thống báo chí và xuất bản trong nước nhưng lại hoàn toàn bất lực trước sinh hoạt báo chí và xuất bản ở hải ngoại, đặc biệt các sinh hoạt truyền thông trên mạng…”
Có thể nói, càng viết ông Nguyễn Hưng Quốc càng bộc lộ những điểm yếu, tử huyệt chết người trong tư duy của chính ông. Lịch sử không phải “luôn luôn được viết bởi những người chiến thắng” mà chỉ những người chiến thắng mới có tư cách viết lịch sử. Điều đó nói lên vị thế của người thắng cuộc (như Huy Đức từng nói). Hai điều này hoàn toàn khác nhau, Ông Quốc không thể hiểu được rằng, để giành được cái quyền viết lịch sử dân tộc, những chủ nhân của nước CHXHCN Việt Nam hôm nay từng đánh đổi những gì.
*********
****
Sau khi ̣đọc những gì ông viết trong bài này, tôi vẫn không thấy ông chứng minh được điều gì khác hơn là ăn vạ và vu vạ. Tất cả những gì ông viết trong bài này không ngoài mục đích để bao che, bạo biện cho cái lổ hỏng kiến thức của chính ông. Và ông đã thất bại hoàn toàn, ý định của ông thất bại thảm hại. Ông viết nhiều, ông hiểu và biết rất rõ bản chất nghiêm trọng của cái "lổ hỏng" mà ông đã phơi bầy cho mọi người thấy.
Ông tìm cách đổ vấy người ta viết lại lịch sử. Nhưng chính bản thân ông, ông đang tìm cách viết lại cái lịch sử mà ông không biết nó là cá gì. Ông đã mắc phải sai lầm nghiêm trọng. Sai lầm này sẽ bám ông mãi mãi mà thôi.
Nên chăng trước khi hô hào cho việc “viết và viết lại lịch sử” thì Ông Nguyễn Hưng Quốc nên giành nhiều thời gian và công sức để cùng với những sử gia trong nước tìm hiểu, viết và biên soạn về các chủ đề lớn: Về lịch sử vùng đất phía Nam, nhất là Nam Bộ, về đô thị và quá trình đô thị hóa ở Việt Nam, về các vùng văn hóa, các không gian văn hóa và mối giao lưu văn hóa trong nước và quốc tế; về các mối quan hệ và quá trình xác lập chủ quyền của Việt Nam trên Biển Đông; về mối quan hệ quốc tế, quá trình hội nhập và con đường phát triển đặc thù của Việt Nam…
HẾT

Blogger templates

Blogger news

Blogroll

Total Pageviews

Tổng số lượt xem trang

Ad

Follow us on Facebook :P

Your Page links

Được tạo bởi Blogger.

Followers

Hot Topics